Ngày 12-10-2015, Sư đoàn 324 (Quân khu 4) tổ chức trao danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân tặng Đại tá Đặng Thọ Truật. Ông nguyên là phóng viên-biên tập viên Ban Đại diện phía Nam của Báo Quân đội nhân dân.
Ngày 12-10-2015, Sư đoàn 324 (Quân khu 4) tổ chức trao danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân tặng Đại tá Đặng Thọ Truật. Ông nguyên là phóng viên-biên tập viên Ban Đại diện phía Nam của Báo Quân đội nhân dân. Trong những năm tháng chống Mỹ, cứu nước, ông đã tham gia nhiều trận đánh khốc liệt, hào hùng, có những trận đánh ông cùng đồng đội bắn rơi hàng chục máy bay và tiêu diệt nhiều lính Mỹ, ngụy.
Đại tá Đặng Thọ Truật sinh ngày 28-8-1951, quê Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Ngày 28-6-1968, ông nhập ngũ vào huấn luyện tại Đại đội 1, Tiểu đoàn 70 súng máy phòng không 12,7mm, Tỉnh đội Nghệ An, sau đó về tham gia chiến đấu ở Đại đội 3, Tiểu đoàn 54, Sư đoàn 324.
Tháng 11-1968, đơn vị được lệnh lên đường chiến đấu, hành quân bộ từ Nghệ An vào Quảng Bình, sang đất bạn Lào rồi trở lại Thừa Thiên. Tại Nam Lào, trận đánh đầu tiên của ông và đồng đội đã bắn rơi một máy bay địch. Sau đó là trận đánh “Chiến dịch Abia” mà báo chí Mỹ gọi là “đồi thịt băm lính Mỹ”, rồi đánh điểm cao 935 diệt một trung đoàn thiếu của Mỹ tại Thừa Thiên-Huế. Trận đánh ở điểm cao 935, ông là xạ thủ số 1, bắn hạ 5 máy bay Mỹ (trong đó có một chiếc phản lực F4H). Kết thúc chiến dịch sau 23 ngày đêm chiến đấu ông được thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, danh hiệu Dũng sĩ diệt máy bay và Dũng sĩ diệt Mỹ.
Cô Pung là một dãy núi cao, nằm ở địa phận A Sầu-A Lưới (Thừa Thiên). Đỉnh Cô Pung cao 1.650m. Năm 1968, quân Mỹ đã từng chiếm đóng điểm cao 1478 để làm bàn đạp tiến công ra Tây Bắc Thừa Thiên, tập kích vào hậu cứ, đánh phá khu hậu cần, hậu phương nhằm chặn đường tiếp tế của ta. Cấp trên nhận định: Sư đoàn kỵ binh bay của Mỹ mở cuộc hành quân trực thăng vận sẽ đổ quân ở Cô Pung, hoặc điểm cao 1478 và ra lệnh cho Sư đoàn 324 đón lõng, đánh chặn, không cho địch triển khai quân. Ông là xạ thủ số 1, được lệnh lên điểm cao đối diện điểm 1478 để mai phục. Nếu địch đổ quân ở điểm 1478 thì đánh, còn nếu địch đổ bộ ở đỉnh Cô Pung thì cơ động tiến lên đánh. Trong 4 ngày cuối tháng 7-1970, địch dùng 27 lượt chiếc B-52 rải thảm nhiều đợt theo dọc dãy núi Cô Pung đến điểm cao 1478. Chúng còn ném bom phát quang đỉnh Cô Pung. Sau đó, một tốp trực thăng ba chiếc bay lượn trên đỉnh cao 1478. Một chiếc hạ độ cao, đáp xuống. Hai chiếc còn lại bay rất thấp, vòng quanh quan sát để “dọn bãi” và trinh sát.
Khoảng 11 giờ, từng tốp 10 chiếc trực thăng UH1 của Sư đoàn kỵ binh bay của Mỹ từ Sân bay Phú Bài (Huế) bay lên Cô Pung, lần lượt từng chiếc đổ bộ xuống điểm 1478. Đại tá Đặng Thọ Truật nhớ lại: “Lúc ấy, chúng tôi quyết định chờ cho địch đổ bộ được 4 chiếc rồi mới bắn. Vì như vậy, buộc địch phải đổ quân để ứng cứu lẫn nhau, đồng thời chúng không dám dọn bãi tiếp”. Ta giữ được thế bất ngờ và bảo toàn lực lượng. Ngay loạt đầu, 3 viên đạn 12,7mm trúng một chiếc UH1 rơi tại chỗ. Liên tiếp mỗi chiếc đổ bộ sau đó, ông lại bắn điểm xạ 3 viên. Trong 10 phút đầu, 5 chiếc máy bay rơi tại chỗ. Địch lồng lộn gọi quân tiếp viện. Chúng điều máy bay phản lực, trực thăng vũ trang bắn vung vãi lên dãy Cô Pung. Do trận địa của ta gần nơi đóng quân của địch và do địa hình rừng núi, sườn dốc hình yên ngựa nên ta không bị tổn hại. Sau đó, địch tiếp tục đổ quân, nhiều máy bay của địch bị bắn hạ. Bắn tới chiếc 31 thì súng 12,7mm bị gãy díp tiếp đạn, không chữa được. Ông và đồng đội cử hai người đi báo cáo với chỉ huy Trung đoàn bộ binh 1 và tổ chức mai phục, chờ địch để đánh.
Trận chiến đấu thắng lợi ở Cô Pung, có ông Bạch Ngọc Liễn, Chủ nhiệm pháo binh Quân khu xuống tận đơn vị ông để khen tặng. Ông kể lại: “Khi tôi về, thấy mọi người vui vẻ lắm. Ông Liễn đến bắt tay tôi rồi nói: “Vừa rồi, nghe đài kỹ thuật của địch báo cáo lên cấp trên là Sư đoàn Anh cả đỏ (của Mỹ) tổ chức đổ bộ lên Cô Pung, bị Quân giải phóng bắn rơi tại chỗ 13 máy bay, bị thương 11 máy bay và bị Quân giải phóng phản kích diệt 25 tên”. Đó là chưa kể số lính bị chết trong máy bay. Với thành tích là xạ thủ số 1, trực tiếp bắn rơi máy bay, ông được tặng Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì. Đại đội 3 và Tiểu đoàn 54 của ông được tặng Huân chương Quân công giải phóng và Cờ đơn vị Anh dũng diệt Mỹ. Sau chiến thắng Cô Pung, ông cùng đơn vị tham gia Chiến dịch Cốc Bai và trực tiếp bắn rơi 1 trực thăng. Cuối năm 1970, ông được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công giải phóng, 3 danh hiệu Dũng sĩ diệt máy bay, 2 danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ…
Bước sang năm 1971, lúc này, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đang bước vào giai đoạn hết sức ác liệt, ông cùng đơn vị hành quân ra tham gia Chiến dịch Đường 9-Nam Lào. Là một xạ thủ dày dạn kinh nghiệm cùng tinh thần chiến đấu quả cảm, mưu trí, Đặng Thọ Truật và Khẩu đội 2, Trung đội 1, Đại đội 3, Tiểu đoàn 54 đã kiên cường giữ vững trận địa, đáp trả mạnh mẽ các đợt không kích của kẻ thù và bắn rơi 6 máy bay của đế quốc Mỹ. Tổng kết chiến dịch, với thành tích xuất sắc cùng tập thể Khẩu đội 2, ông được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, danh hiệu Dũng sĩ diệt máy bay, Dũng sĩ diệt Mỹ, được kết nạp Đảng và được bầu là Chiến sĩ thi đua. Từ tháng 2-1972, trên cương vị Khẩu đội trưởng Khẩu đội 2, ông tiếp tục chiến đấu và cùng khẩu đội lập được nhiều chiến công xuất sắc như tham gia giải phóng Quảng Trị; chỉ huy khẩu đội chiến đấu kiên cường, giữ vững trận địa được giao trên Đường 12 tây nam Huế và bắn rơi 3 máy bay. Đến tháng 10-1972, khẩu đội Đặng Thọ Truật chốt tại dốc Lồ Ô, Phong Điền, Thừa Thiên-Huế và đã bắn rơi 1 máy bay UH1B.
Sau ngày giải phóng, ông được điều về Quân đoàn 3, rồi được cử đi học đại học báo chí và ông đỗ thủ khoa. Ở tuổi 35, ông là người duy nhất của khóa học được Bộ Quốc phòng điều động về Báo Quân đội nhân dân. Ít lâu sau, ông chuyển vào TP Hồ Chí Minh làm phóng viên-biên tập viên của báo. Trong thời gian cầm bút, nhà báo Đặng Thọ Truật đã có những bài báo để lại nhiều ấn tượng, suy ngẫm, thể hiện tinh thần và nhiệt huyết của một nhà báo-chiến sĩ. Người ta nhắc đến những bài báo, tiểu luận của ông và khen đó là những “bài viết có lửa” như: “Được về hưu và phải phục viên”, “Học thêm thành nhọc thêm”, “Trăm sự nhờ thầy”… Bài “Chất lượng đảng viên nhập ngũ ở Đồng bằng sông Cửu Long, một vấn đề đáng quan tâm” là một bài điều tra rất công phu, được đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng vào tháng 11-2000 và được tặng giải B của Giải Báo chí toàn quốc về “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh và công tác xây dựng Đảng”…
( Nguồn Báo QĐND)