Chủ Nhật, Tháng 6 8, 2025
* Email: bbt.dongnama@gmail.com *Tòa soạn: 0989011688 - 0768908888
spot_img

Chặng đường 95 năm qua của Đảng Cộng sản Việt Nam từ mùa Xuân lịch sử 1930

Chào mừng 95 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 - 3/2/2025)

ĐNA -

Ngày 3/2/1930, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua sự hợp nhất của ba tổ chức cộng sản, chấm dứt tình trạng phân tán về tư tưởng và tổ chức, khơi dậy phong trào cách mạng rộng lớn khắp cả nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân Việt Nam đã kiên cường đấu tranh, chống giặc ngoại xâm, giành lại độc lập, tự do của dân tộc. Đến nay Việt Nam đã bước vào kỷ nguyên phát triển mạnh mẽ, khẳng định vị thế vững chắc trên chính trường Đông Nam Á và quốc tế. Chặng đường 95 năm qua của Đảng Cộng sản Việt Nam là một hành trình đầy cam go và thử thách, nhưng vô cùng vẻ vang, đánh dấu những mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc.

Lịch sử Việt Nam từ năm 1858 đến 1930
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, mở đầu quá trình áp đặt ách thống trị thực dân và từng bước biến Việt Nam từ một quốc gia phong kiến độc lập thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.

Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam đã liên tục phát động các phong trào yêu nước sôi nổi nhằm giành lại độc lập, tuy nhiên đều không giành được thắng lợi. Phong trào Cần Vương, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng lãnh đạo năm 1896, là biểu hiện của tinh thần yêu nước dưới ngọn cờ phong kiến nhưng đã kết thúc vào cuối thế kỷ XIX. Bước sang đầu thế kỷ XX, cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo kéo dài hàng chục năm cũng bị đàn áp và thất bại vào năm 1913. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản, do các sĩ phu yêu nước như Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh lãnh đạo, rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930 của Việt Nam Quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học đứng đầu cũng không thành công.

Những phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX thể hiện truyền thống bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng lãnh đạo đủ mạnh, các phong trào lần lượt thất bại, đẩy cách mạng Việt Nam rơi vào cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.

Trong bối cảnh đó, khi nhiều nhà yêu nước vẫn tiếp tục theo đuổi những con đường cứu nước cũ, thì vào ngày 5/6/1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành (sau này là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) đã ra đi tìm đường cứu nước theo một hướng đi mới. Người đã đi qua nhiều quốc gia ở châu Âu, châu Phi và châu Mỹ, và nhận ra rằng, “Chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc là nguồn gốc của mọi đau khổ không chỉ đối với nhân dân các nước thuộc địa mà cả giai cấp công nhân ở chính quốc“.

Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc trở lại Pháp và đến Paris; đến năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Tháng 6/1919, với tên gọi mới là Nguyễn Ái Quốc, Người thay mặt nhóm những người Việt Nam yêu nước gửi bản Yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Versailles.

Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin và từ đó xác định con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp tháng 12/1920, Người bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Sự kiện này không chỉ đánh dấu bước ngoặt trong nhận thức tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc – từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác – Lênin – mà còn mở ra con đường mới cho sự nghiệp giải phóng dân tộc: con đường cách mạng vô sản.

Từ đây, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu thực hiện nhiệm vụ kép: vừa tích cực tham gia phong trào cộng sản quốc tế, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào yêu nước Việt Nam, xác lập đường lối chiến lược cho cách mạng và chuẩn bị cho việc thành lập một chính đảng cách mạng chân chính.

Từ năm 1921 đến 1930, Nguyễn Ái Quốc dồn sức truyền bá lý luận Mác – Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước trong nước. Người nhấn mạnh rằng: muốn cách mạng thành công, cần có một chính đảng cách mạng chân chính, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động.

Bên cạnh việc truyền bá lý luận, Nguyễn Ái Quốc cũng đặc biệt chú trọng xây dựng tổ chức và đào tạo cán bộ. Năm 1925, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc), tổ chức nhiều lớp huấn luyện cán bộ, đồng thời gửi nhiều thanh niên yêu nước sang học tại Trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và Trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc).

Nhờ những nỗ lực không ngừng nghỉ của Nguyễn Ái Quốc và các nhà cách mạng tiền bối, đến cuối năm 1929, các tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách của việc thống nhất lực lượng, thành lập một đảng cộng sản duy nhất. Nguyễn Ái Quốc đã chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản tại Hương Cảng (Trung Quốc) từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930, dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nguyễn Tất Thành tại Hội nghị Versailles, Pháp . Ảnh: Tạp chí Tuyên giáo.

Bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam
Ngày 3/2/1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì việc hợp nhất ba tổ chức cộng sản, chính thức thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, chấm dứt tình trạng phân tán về tư tưởng và tổ chức trong phong trào cách mạng. Sự kiện này đã mở ra một bước ngoặt lớn, khơi dậy phong trào cách mạng sâu rộng trên cả nước. Dưới sự lãnh đạo của Người, Đảng đã xây dựng được đường lối cách mạng đúng đắn, thống nhất các lực lượng yêu nước, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, từng bước đưa nhân dân Việt Nam thoát khỏi ách áp bức, tiến tới giành lại nền độc lập, tự do cho Tổ quốc.

“Như đứa trẻ sinh nằm trên cỏ
Không quê hương, sương gió tơi bời
Đảng ta sinh ở trên đời
Một hòn máu đỏ nên Người hôm nay”. Thơ: Tố Hữu – Ba mươi năm đời ta có Đảng

Ngay từ những năm đầu thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân phát động nhiều phong trào đấu tranh cách mạng tiêu biểu như: phong trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh (1930–1931); cao trào dân sinh, dân chủ (1936–1939); và cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939–1945), culminating in the successful Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2/9/1945 là một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, đánh dấu bước chuyển mình vĩ đại của đất nước – từ thân phận thuộc địa nửa phong kiến trở thành một quốc gia độc lập, tự do.

Giành được độc lập, dân tộc Việt Nam bước vào một thời kỳ lịch sử mới với những thách thức to lớn. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945–1954), dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, mà đỉnh cao là chiến thắng lừng lẫy Điện Biên Phủ, quân và dân ta đã buộc Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở miền Bắc Việt Nam.

Tuy nhiên, đất nước vẫn bị chia cắt, và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước lại tiếp tục kéo dài suốt hơn hai thập niên (1954–1975). Trong thử thách cam go này, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đưa đất nước hoàn toàn thống nhất, mở ra kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, tự do và đi lên chủ nghĩa xã hội.

Nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh là một tấm gương sáng, góp phần giáo dục lý tưởng cách mạng, truyền thống yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, góp phần củng cố niềm tin của hân dân đối với công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng của đất nước.

Bước tiến vững chắc của đất nước
Sau khi đất nước thống nhất, Việt Nam phải đối mặt với muôn vàn khó khăn do hậu quả nặng nề của chiến tranh để lại, cùng với những hạn chế của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung và cơ chế bao cấp kéo dài. Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện bản lĩnh và tầm nhìn chiến lược khi quyết định thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện tại Đại hội VI (tháng 12/1986). Đây là bước ngoặt mang tính lịch sử, mở đầu cho quá trình chuyển đổi mạnh mẽ từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đại hội VI đã xác lập đường lối đổi mới toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Đường lối này không chỉ thể hiện sự nhận thức sâu sắc của Đảng về thực tiễn đất nước trong bối cảnh quốc tế nhiều biến động, mà còn là lựa chọn chiến lược đúng đắn, đặt nền móng cho những thành tựu quan trọng trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Tiếp nối thành công của Đại hội VI, Đại hội VII (tháng 6/1991) đã khẳng định sự kiên định trong quá trình đổi mới, thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là văn kiện có ý nghĩa nền tảng, xác định rõ con đường phát triển của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội VII cũng tái khẳng định chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng, đồng thời thể hiện rõ bản lĩnh chính trị và sự kiên định với con đường xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn.

Từ Đại hội VIII đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục bổ sung, hoàn thiện và phát triển hệ thống lý luận về đổi mới và hội nhập quốc tế. Các nghị quyết của Đảng ngày càng đi vào chiều sâu, có trọng tâm, trọng điểm phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Đảng đã lãnh đạo Quốc hội và Chính phủ hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế quản lý nhà nước, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho sự phát triển ổn định và bền vững. Quá trình đổi mới không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, mà còn củng cố vững chắc nền quốc phòng – an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi hoàn cảnh.

Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong ngày hoàn thành đường dây tải điện 500 KV Bắc – Nam (tháng 5/1994).

Khởi đầu cho kỷ nguyên mới
Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Việt Nam đánh dấu sự khởi đầu của một kỷ nguyên mới, là bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Sau gần 35 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và 40 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Từ một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu, Việt Nam đã vươn lên trở thành một nước đang phát triển có thu nhập trung bình, hội nhập ngày càng sâu rộng vào đời sống chính trị thế giới và nền kinh tế toàn cầu.

Thực tiễn gần bốn thập kỷ đổi mới đã minh chứng rõ ràng cho sự đúng đắn của đường lối phát triển mà Đảng đã lựa chọn. Quy mô nền kinh tế Việt Nam hiện nay đã tăng gần 96 lần so với năm 1986. Việt Nam nằm trong nhóm 40 nền kinh tế hàng đầu thế giới, tham gia 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA) và kết nối thương mại với hơn 60 nền kinh tế chủ chốt. Trên lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia và vùng lãnh thổ; xây dựng quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với 30 quốc gia, trong đó có các cường quốc là thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và nhóm G7.

Song hành với sự phát triển kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc đã được hoàn thành sớm, chất lượng cuộc sống của người dân ngày càng nâng cao. Đồng thời, sức mạnh tổng hợp của quốc gia được củng cố toàn diện trên các lĩnh vực: chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học – công nghệ, quốc phòng, an ninh. Việt Nam đã và đang tích cực đóng góp vào nỗ lực giữ gìn hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững ở khu vực và trên thế giới.

Những thành tựu to lớn ấy là kết quả của quá trình phấn đấu liên tục, bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ Đại hội I năm 1935 với chỉ khoảng 500 đảng viên, đến Đại hội XIII năm 2021 với hơn 5 triệu đảng viên và hơn 53.800 tổ chức cơ sở đảng, sự trưởng thành và lớn mạnh của Đảng là minh chứng hùng hồn cho vai trò lịch sử và sức sống mãnh liệt của một Đảng cách mạng chân chính – vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của Nhân dân.

Nhìn về tương lai
Đại hội XIV của Đảng (mùa xuân năm 2026) được xác định là thời điểm dân tộc ta chính thức tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên tăng tốc, bứt phá để hiện thực hóa khát vọng xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc khu vực và thế giới.

Để chuẩn bị hoàn tất hành trang cho dân tộc bước vào kỷ nguyên mới, như Tổng Bí thư Tô Lâm đã phát biểu trước Quốc hội: “Trong ba điểm nghẽn lớn nhất hiện nay (thể chế phát triển, hạ tầng, nguồn nhân lực) thì thể chế phát triển là điểm nghẽn lớn nhất. Đây là những hạn chế kéo dài nhiều năm nên không thể khẩn trương khắc phục sẽ tiếp tục cản trở sự phát triển, gây lãng phí, bỏ lỡ thời cơ phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới. Việc tháo gỡ điểm nghẽn, nút thắt rào cản là trách nhiệm của hệ thống chính trị và cần được tiến hành đồng bộ, cần coi khâu đột phá về thể chế phát triển là “đột phá” của “đột phá”. Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ đạo tập trung tiến hành kiên quyết, tập trung, đồng bộ có hiệu quả 5 nhiệm vụ để tháo gỡ điểm nghẽn lớn nhất này. Từ nay đến Đại hội XIV, chúng ta có rất nhiều việc phải làm, tập trung vào ba nhóm nhiệm vụ chính.

Thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là mục tiêu cao nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Nhiệm vụ này phải được thực hiện với quyết tâm cao nhất, nỗ lực lớn nhất, hành động quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm với các giải pháp thực hiện hiệu quả nhất, tập trung mọi nguồn lực, biện pháp phấn đấu đạt và vượt các mục tiêu đề ra: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trong đó đổi mới mạnh mẽ công tác lập pháp, chuyển đổi tư duy xây dựng pháp luật theo hướng đảm bảo yêu cầu quản lý Nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển.

Tư duy quản lý không cứng nhắc, dứt khoát từ bỏ tư duy không quản được thì cấm, xóa bỏ cơ chế xin – cho. Việc hoàn thiện thể chế phát triển còn để chống lãng phí thời gian, lãng phí cơ hội phát triển. Cần chủ động, khẩn trương tích cực xây dựng hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới trong đó tạo khuôn khổ pháp lý để thực hiện xây dựng thành công cuộc cách mạng về chuyển đổi số, tạo đột phá cho đất nước phát triển những năm tiếp theo.

Thường xuyên đánh giá hiệu quả, chất lượng chính sách sau khi ban hành để kịp thời điều chỉnh bất cập, mâu thuẫn, giảm thất thoát, lãng phí nguồn lực. Chủ động phát hiện, tháo gỡ nhanh nhất những điểm nghẽn có nguyên nhân từ những quy định của pháp luật.

Cần khẩn trương tập trung rà soát, giải quyết dứt điểm tồn tại kéo dài đối với những dự án quan trọng của quốc gia, dự án hiệu quả thấp, gây thất thoát lãng phí lớn, các ngân hàng thương mại yếu kém. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đảm bảo sự điều hành thông suốt của Trung ương gắn với tăng cường tính chủ động sáng tạo của địa phương trong quản lý và phát triển với phương châm: “Địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”.

Đồng thời đổi mới quy trình quyết định về ngân sách Nhà nước đảm bảo thực chất đi đôi với việc giám sát việc thực hiện ngân sách. Cải cách triệt để thủ tục hành chính, giảm chi phí hành chính, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, trong đó tập trung vào đơn giản hóa thủ tục hành chính, cắt bỏ thủ tục không cần thiết gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp, cản trở cạnh tranh lành mạnh. Tăng cường rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa quy trình, quy định, thủ tục, điều kiện kinh doanh bảo đảm thực chất hiệu quả trên cơ sở lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm.

Tăng cường ứng dụng khoa học – công nghệ, đẩy mạnh số hóa, mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến. Gắn công tác phòng chống tham nhũng lãng phí, tiêu cực với xây dựng thể chế phát triển. Phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, góp phần thúc đẩy tăng tốc bứt phá hoàn thành các mục tiêu Đại hội XIII đề ra. Tăng cường các hoạt động kiểm tra, thanh tra, kiểm toán các lĩnh vực có nguy cơ và dư luận về tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, giải quyết kịp thời các vụ việc dư luận quan tâm, nhân dân bức xúc, nhưng hạn chế tối đa ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các cơ quan, doanh nghiệp, người dân.

Về chính trị: Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện. Củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước với chế độ XHCN. Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp sức mạnh thời đại. Xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định.

Về kinh tế: Tăng trưởng GDP bình quân 5 năm đạt khoảng 6,5 – 7%/năm. Năm 2025 đạt 8%/năm. Năm 2025, GDP bình quân đầu người đạt 4.700-5.000 USD. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt khoảng 45%. Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân trên 6,5%/năm; tỷ lệ đô thị hóa đạt khoảng 45%, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt trên 25% GDP. Kinh tế số đạt khoảng 20% GDP.

Về xã hội: Năm 2025 tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 25%, tỷ lệ lao động qua đào tạo là 70%, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%, tỷ lệ nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1-1,5%/năm; có 10 bác sỹ và 30 giường bênh trên 1 vạn dân, tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 95% dân số, tuổi thọ trung bình khoảng 74,5 tuổi. Tỷ lệ đạt chuẩn nông thôn mới tối thiểu 80%, trong đó ít nhất 10% đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu.

Về môi trường: Năm 2025 tỷ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của cư dân thành thị là 95-100%, nông thôn là 93-95%, tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 90%, tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường là 92%, tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 100%, giữ tỷ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 42%. Phải quyết tâm phấn đấu đạt các mục tiêu và chỉ tiêu ở mức cao nhất, đồng thời chủ động chuẩn bị các phương án để kịp thời thích ứng với các biến động của tình hình. Dựa vào những kết quả đạt được từ năm 2021 đến nay và dự kiến phát triển kinh tế xã hội năm 2025, với quyết tâm đạt và vượt mức toàn bộ các mục tiêu, chỉ tiêu Đại hội XIII đề ra. Tuy nhiên đến nay, trên thực tế chúng ta còn không ít khó khăn thách thức đối với việc thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu liên quan đến tốc độ và chất lượng tăng trưởng GDP, tăng năng suất lao động. Do đó các giải pháp phải tập trung cao nhất cho phát triển nhanh và bền vững.

Trong suốt 95 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định vai trò lãnh đạo duy nhất, tuyệt đối và toàn diện đối với cách mạng Việt Nam. Từ những ngày đầu thành lập với muôn vàn gian khó, Đảng đã kiên cường lãnh đạo dân tộc vượt qua mọi thử thách, giành độc lập, thống nhất đất nước, đưa nhân dân thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, vững bước trên con đường phát triển, hội nhập quốc tế. Mỗi thắng lợi đạt được đều là minh chứng sinh động cho bản lĩnh chính trị, trí tuệ sắc bén, tinh thần cách mạng kiên định và lòng tận trung vì nhân dân, vì Tổ quốc của Đảng.

Trong bối cảnh hiện nay, mặc dù tình hình khu vực và thế giới còn nhiều biến động phức tạp, tác động đa chiều đến mọi mặt đời sống, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn kiên định với con đường phát triển Xã hội chủ nghĩa, kiên trì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Với nền tảng ổn định chính trị, kinh tế tiếp tục tăng trưởng, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao, Đảng xác định rõ nhiệm vụ trung tâm là bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, tăng cường quốc phòng – an ninh, đẩy mạnh đổi mới đồng bộ, toàn diện, bảo đảm cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.

Đại hội XIV của Đảng sắp tới sẽ là dấu mốc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đánh dấu bước chuyển mình quyết liệt, đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên tăng tốc, bứt phá với khát vọng xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc. Đây là dịp để Đảng tiếp tục hoạch định đường lối, chính sách đúng đắn, khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, khát vọng cống hiến của toàn dân tộc, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, đưa đất nước vững vàng tiến lên, vượt qua mọi thách thức, nắm bắt mọi thời cơ, thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược trong thời kỳ mới.

Vững bước dưới lá cờ của Đảng, với niềm tin son sắt vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc Việt Nam nhất định sẽ viết tiếp những trang sử vẻ vang, đưa đất nước vươn lên tầm cao mới, sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác Hồ hằng mong ước.

“Đảng ta đó, trăm tay nghìn mắt
Đảng ta đây, xương sắt da đồng.
Đảng ta, muôn vạn công nông
Đảng ta, muôn vạn tấm lòng niềm tin“. Thơ: Tố Hữu – Ba mươi năm đời ta có Đảng.

Thế Nguyễn