Thứ Tư, Tháng 12 3, 2025
* Email: bbt.dongnama@gmail.com *Tòa soạn: 0989011688 - 0768908888
spot_img

Đại tướng Lê Đức Anh, Người cầm quân luôn trở về trong chiến thắng



ĐNA -

Ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị đồng ý chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Sài Gòn mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh. Bộ tư lệnh chiến dịch gồm 8 người, gồm: Đại tướng Văn Tiến Dũng (Tư lệnh chiến dịch); Chính ủy Phạm Hùng; cùng các Phó Tư lệnh: Trung tướng Lê Đức Anh; Thượng tướng Trần Văn Trà; Trung tướng Lê Trọng Tấn; Trung tướng Đinh Đức Thiện; Phó Chính ủy, Trung tướng Lê Quang Hòa và quyền Tham mưu trưởng, Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền.

Đại tướng Lê Đức Anh, Người cầm quân luôn trở về trong chiến thắng.

Lực lượng trực tiếp tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh gồm 5 quân đoàn với khoảng 15 sư đoàn, bao gồm các quân đoàn 1, 2, 3, 4 và Đoàn 232 — đều là lực lượng binh chủng hợp thành. Cùng với đó là các đơn vị bộ đội địa phương, dân quân, tự vệ và lực lượng nổi dậy của quần chúng ở cả nông thôn lẫn thành thị.

Bộ Chỉ huy Chiến dịch xác định phương châm tác chiến là đánh nhanh, quyết liệt, không cho địch kịp co cụm về Sài Gòn, đồng thời ngăn chặn không để chúng rút chạy về miền Tây. Các cánh quân được tổ chức thành những mũi thọc sâu, mũi đánh vòng ngoài, phối hợp chặt chẽ giữa chủ lực và địa phương, giữa quân đội và nhân dân, tạo nên thế tiến công liên tục, dồn dập, tiến tới toàn thắng hoàn toàn Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Trung tướng Lê Đức Anh, Phó Tư lệnh Chiến dịch được giao nhiệm vụ chỉ huy và lãnh đạo trực tiếp cánh quân tiến công trên hướng Tây – Tây Nam Sài Gòn (Đoàn 232), một trong năm cánh quân chủ lực trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.

Thời điểm ấy, Bộ Chỉ huy Miền (B2) đánh giá đây là hướng tiến công khó khăn nhất do địa hình sình lầy phức tạp. Tuy nhiên, đây cũng là hướng có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, bởi việc nhanh chóng chia cắt quân địch trên tuyến quốc lộ 4 sẽ ngăn không cho lực lượng địch ở Sài Gòn rút lui, co cụm về cố thủ tại Tây Đô (Cần Thơ).

Đoàn 232 do Trung tướng Lê Đức Anh chỉ huy gồm các Sư đoàn 3, 5, 9; bốn trung đoàn độc lập và một trung đoàn đặc công, với ba nhiệm vụ trọng yếu: chia cắt lực lượng địch giữa Sài Gòn, miền Đông và đồng bằng sông Cửu Long; tấn công Biệt khu Thủ đô và Tổng nha Cảnh sát; sau đó hợp điểm tại Dinh Độc Lập, góp phần quyết định vào thắng lợi hoàn toàn của Chiến dịch Hồ Chí Minh.

Đúng 17 giờ ngày 26/4/1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử chính thức bắt đầu. Các đơn vị trên hướng Tây – Tây Nam đồng loạt nổ súng tiến công. Sư đoàn 5 nhanh chóng cắt đứt đoạn Bến Lức – Tân An; Sư đoàn 8 khống chế lộ 4 từ Mỹ Tho đến bờ sông Tiền; Sư đoàn 3 đánh chiếm khu vực An Ninh – Lộc Giang, vượt sông Vàm Cỏ; Sư đoàn 9 vượt sông Vàm Cỏ, tập kết tại Cầu Bông – Mỹ Thạnh – Đức Hòa, sẵn sàng đánh thẳng vào nội đô.

Đến ngày 30/4, cánh quân hướng Tây – Tây Nam do Trung tướng Lê Đức Anh chỉ huy đã đánh chiếm Biệt khu Thủ đô, Bộ Tư lệnh Cảnh sát quốc gia, Tổng nha Cảnh sát, Cảnh sát Đô thành, giải phóng các quận Tân Bình, Bình Chánh, và hợp điểm tại Dinh Độc Lập đúng theo kế hoạch tác chiến.

Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, đất nước hoàn toàn thống nhất, non sông nối liền một dải.

Trong hồi ký của mình, Đại tướng Lê Đức Anh khẳng định: “Thắng lợi trọn vẹn của chúng ta có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân to lớn nhất, cơ bản nhất, gốc rễ nhất là tư tưởng ‘Nhân ái’.” Theo Đại tướng, tư tưởng “nhân nghĩa” của thời đại Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống chí nhân, chí nghĩa của dân tộc Việt Nam, tinh thần đã được Nguyễn Trãi khẳng định trong “Bình Ngô đại cáo”: “Lấy chính nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo.”

Đại tướng Lê Đức Anh (hàng đầu bên phải) với các lãnh đạo Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh.

Luôn trở về trong từng chiến thắng
Theo đánh giá của các nhà sử học và tướng lĩnh quân sự, Đại tướng Lê Đức Anh là một vị tướng trận mạc tiêu biểu, một nhà cầm quân tài năng và bản lĩnh. Ông là một trong số ít người đã trải qua hầu hết các cuộc chiến tranh và xung đột của dân tộc từ năm 1945 đến 1989, luôn có mặt ở những điểm nóng nhất, và cũng luôn trở về trong từng chiến thắng, từng chiến dịch được giao phó.

Cuộc đời binh nghiệp của ông gắn với các chiến trường từ Bắc vào Nam: tham gia 9 năm kháng chiến chống Pháp, đi chiến trường miền Nam 11 năm (1964 – 1975), chỉ huy chiến trường Campuchia 7 năm (1979 – 1986), ổn định tình hình biên giới phía Bắc (1986 – 1989), đồng thời có mặt tại Trường Sa trong những ngày căng thẳng nhất. Đáng chú ý, ông không phải là vị tướng bàn giấy, mà là người trực tiếp tham gia những trận đánh, những sự kiện mang tính bước ngoặt của chiến tranh: Mậu Thân 1968, chống lấn chiếm 1973, Phước Long 1974, chiến dịch Hồ Chí Minh (1975), chiến dịch giải phóng Campuchia (1979); chấm dứt xung đột biên giới với Trung Quốc (1979-1989); bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc (1979-1988).

Trong những thời khắc mang tính bước ngoặt của lịch sử, những mệnh lệnh của Đại tướng Lê Đức Anh khiến giới sử học và các nhà quân sự phải thốt lên: “Chỉ có thể là Lê Đức Anh.” Ngày 6/11/1987, khi giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ông đã ban hành Mệnh lệnh số 1679/ML-QP về bảo vệ quần đảo Trường Sa, một quyết định có tầm nhìn chiến lược, thể hiện ý chí kiên định trong bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Tiếp đó, ngày 29/3/1989, ông tiếp tục ký Mệnh lệnh số 167/ML-QP về việc đóng giữ và bảo vệ khu vực biển thềm lục địa, các bãi đá ngầm thuộc khu DK1, vùng biển tiền tiêu của Việt Nam. Trước đó, trong Chiến dịch Chủ quyền 1988 (CQ-1988), với bản lĩnh và quyết đoán của người chỉ huy, Đại tướng Lê Đức Anh đã góp phần giúp Việt Nam giữ vững những đảo, điểm đóng quân quan trọng nhất ở quần đảo Trường Sa, ngăn chặn âm mưu thôn tính của ngoại bang, khẳng định chủ quyền quốc gia trên Biển Đông.

Ngày 3/5/2019, Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam tiễn đưa Đại tướng Lê Đức Anh về cõi vĩnh hằng. Sự ra đi của ông để lại niềm tiếc thương vô hạn cho đồng bào, đồng chí; nhưng di sản tinh thần, bản lĩnh và nhân cách của một vị tướng, người chiến sĩ trung kiên của thời đại Hồ Chí Minh sẽ mãi trường tồn cùng non sông đất nước.

Cuộc đời ông gắn liền với những chiến thắng và cả những bước ngoặt thăng trầm của lịch sử dân tộc, của thời đại Hồ Chí Minh, nơi bản lĩnh, trí tuệ và lòng trung nghĩa của người chiến sĩ cách mạng được thử thách đến cùng. Có lẽ, để hiểu trọn vẹn về ông, thế hệ sau sẽ cần đến những công trình nghiên cứu và những trang “giải mật” lịch sử, nhằm soi tỏ tầm vóc của một vị tướng cả đời vì nước, vì dân.

Đại tướng Lê Đức Anh, người lính suốt đời gắn bó với Tổ quốc  đã để lại dấu ấn sâu đậm trong từng chặng đường lịch sử hiện đại Việt Nam. Từ những năm tháng kháng chiến gian khổ đến thời bình xây dựng và bảo vệ chủ quyền quốc gia, ông luôn hiện lên như biểu tượng của bản lĩnh, trí tuệ, lòng trung nghĩa và đức nhân ái.

Cuộc đời và sự nghiệp của ông không chỉ là hành trình của một vị tướng tài ba, mà còn là bản hùng ca về lòng yêu nước, tinh thần nhân nghĩa và trách nhiệm với dân tộc. Giờ đây, khi nhắc đến ông, người ta không chỉ nhớ tới một vị tướng trận mạc, một nhà chiến lược tài ba, mà còn nhớ tới một con người của thời đại Hồ Chí Minh, giản dị, kiên trung, và đầy nhân nghĩa.

Dẫu thời gian trôi đi, tên tuổi Đại tướng Lê Đức Anh vẫn mãi khắc sâu trong tâm trí dân tộc, như một ngọn mốc son trên hành trình giữ nước, dựng nước và như lời nhắc nhở thế hệ hôm nay và mai sau về bản lĩnh, trí tuệ, lòng nhân và tinh thần bất khuất Việt Nam.

Đại tướng Lê Đức Anh qua đời vào hồi 20 giờ 10 phút, ngày 22/4/2019. Một ngôi mộ bình dị nằm ở góc Nghĩa trang thành phố Hồ Chí Minh.

Thế Nguyễn/nguồn Đại tướng Lê Đức Anh – cuộc đời và sự nghiệp cách mạng