“Đoàn kết là sức mạnh vô địch của chúng ta”, lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là chân lý cách mạng mà còn là kim chỉ nam xuyên suốt hành trình lịch sử dân tộc. Từ những năm tháng kháng chiến đầy gian khổ đến chặng đường đổi mới và phát triển hôm nay, đại đoàn kết toàn dân tộc luôn là cội nguồn sức mạnh nội sinh, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Quan điểm của Đảng về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, đại đoàn kết dân tộc luôn được xem là cội nguồn sức mạnh nội sinh, là nhân tố then chốt quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Từ những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm gian khổ đến công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, sức mạnh của sự đồng lòng, chung sức của toàn dân tộc đã được khẳng định một cách mạnh mẽ. Bước vào bối cảnh mới, với những biến chuyển sâu sắc của tình hình thế giới và khu vực, cùng những yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc củng cố và phát huy hơn nữa sức mạnh đại đoàn kết dân tộc càng trở nên cấp thiết và mang ý nghĩa chiến lược.
Xuyên suốt lịch sử dựng xây và bảo vệ Tổ quốc, đại đoàn kết dân tộc đã trở thành một di sản vô giá của Nhân dân Việt Nam. Tiếp nối giá trị truyền thống sâu sắc này, tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc giữ một vị trí then chốt, mang tính hệ thống, xuyên suốt và nhất quán trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo Người, để kiến tạo một khối đại đoàn kết toàn dân vững mạnh, cần xác định rõ lực lượng chủ đạo, cốt lõi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số Nhân dân, mà đại đa số Nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết”. Chính quan điểm này là nền tảng để Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng ta sáng lập và lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Tại Đại hội thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày 10-9-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Lịch sử trong những năm qua đã tỏ rõ lực lượng đoàn kết của nhân dân là vô địch. Mặt trận Việt Minh đã giúp cách mạng tháng Tám thành công. Mặt trận Thống nhất Việt Minh – Liên Việt đã giúp kháng chiến thắng lợi. Chúng ta có thể tin chắc rằng: với sự cố gắnDẫng của mỗi người và sự ủng hộ của toàn dân, Mặt trận Tổ quốc sẽ làm tròn nhiệm vụ vẻ vang là giúp xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh “.
Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước đã minh chứng rằng, mỗi khi Tổ quốc đối diện với những thời khắc cam go, thử thách mang tính quyết định, “nếu biết khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, phát huy sức mạnh vĩ đại của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, thì con thuyền cách mạng Việt Nam sẽ vượt qua mọi thác ghềnh, phong ba bão táp, để cập bến bờ vinh quang” . Việc phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là một chủ trương nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta, được thể hiện rõ ràng trong nhiều văn kiện, nghị quyết, quyết định, chỉ thị qua các giai đoạn cách mạng. Đến nay, khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được củng cố vững chắc, tạo nên sức mạnh tổng hợp cho đất nước, đóng góp vào sự tăng trưởng mạnh mẽ của kinh tế và duy trì sự ổn định chính trị – xã hội. Trong bối cảnh hiện tại, Đảng ta khẳng định: “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” . Nhìn chung, sự phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc được thể hiện trực tiếp qua việc nâng cao vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (năm 2001) diễn ra vào thời điểm nhân loại chuyển giao giữa hai thế kỷ, mở ra những cơ hội và đồng thời đặt ra không ít thách thức cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Tại Đại hội này, Đảng ta đã đặc biệt nhấn mạnh: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội” . Chính nhờ việc phát huy sức mạnh của khối đoàn kết trong Đảng và sự đại đoàn kết của toàn dân tộc dưới sự dẫn dắt của Đảng, cách mạng Việt Nam đã tạo dựng được sức mạnh tổng hợp, vượt qua giai đoạn khủng hoảng vô cùng khó khăn đối với sự tồn tại của chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, Việt Nam không chỉ kiên định giữ vững con đường xã hội chủ nghĩa mà còn tiếp tục quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội với một quyết tâm cao độ: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” .
Tiếp nối và làm sâu sắc hơn chủ trương của Đảng về đại đoàn kết dân tộc, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (tháng 1 năm 2016) đã đặc biệt khẳng định nền tảng vững chắc của khối đại đoàn kết toàn dân tộc chính là sự liên minh chặt chẽ giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Đảnh nhấn mạnh “Đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”
Trên cơ sở kế thừa và bổ sung quan điểm tại các kỳ Đại hội trước về những nhân tố tạo thành động lực phát triển đất nước, Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc…”
Như vậy, Trải qua các kỳ đại hội, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đại đoàn kết dân tộc luôn được khẳng định, kế thừa và phát triển, nhất quán xem đây là truyền thống cốt lõi, sức mạnh nội sinh, động lực then chốt và có ý nghĩa sống còn cho sự nghiệp cách mạng. Từ việc xác định liên minh công – nông – trí thức là nền tảng vững chắc, Đảng đã nhấn mạnh vai trò của đại đoàn kết trong việc huy động mọi nguồn lực, tạo dựng sự đồng thuận xã hội, vượt qua khó khăn và hướng tới mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh và hạnh phúc. Tinh thần xuyên suốt là phát huy tối đa sức mạnh của toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, khơi dậy lòng yêu nước, ý chí tự cường và khát vọng phát triển, để đại đoàn kết thực sự trở thành động lực chủ yếu và nguồn lực quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc qua các giai đoạn lịch sử.

Vai trò sức mạnh đại đoàn kết dân tộc ở Đông Nam Bộ trong tình hình mới hiện nay
Vùng Đông Nam Bộ, với vị trí địa kinh tế, chính trị đặc biệt quan trọng, là đầu tàu kinh tế, trung tâm công nghiệp, dịch vụ, khoa học – công nghệ hàng đầu của cả nước. Nơi đây hội tụ đa dạng các thành phần dân tộc, tôn giáo, giai cấp và tầng lớp xã hội, cùng với lực lượng lao động đông đảo, năng động đến từ khắp mọi miền đất nước. Sự đa dạng này vừa là tiềm năng to lớn, vừa đặt ra những yêu cầu không nhỏ trong việc xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển nhanh và bền vững của vùng, đóng góp vào sự thịnh vượng chung của quốc gia. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vùng Đông Nam Bộ hiện nay cũng đang phải đối mặt với không ít thách thức. Quá trình phát triển kinh tế nhanh chóng kéo theo những vấn đề xã hội phức tạp như phân hóa giàu nghèo, áp lực cạnh tranh việc làm, những tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Thêm vào đó, sự khác biệt về văn hóa, tập quán giữa các cộng đồng dân cư, cùng với âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo của các thế lực thù địch, đòi hỏi chúng ta phải có những giải pháp đồng bộ, hiệu quả để củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong bối cảnh mới.
Trong bối cảnh hiện nay, việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc tại vùng Đông Nam Bộ mang một ý nghĩa chiến lược đặc biệt, không chỉ củng cố nền tảng chính trị – xã hội vững chắc mà còn tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế – xã hội năng động của vùng. Với vị trí là trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học – công nghệ hàng đầu của cả nước, Đông Nam Bộ quy tụ đa dạng các cộng đồng dân cư, giai cấp, tầng lớp xã hội đến từ khắp mọi miền. Việc tăng cường sự gắn kết, đồng thuận giữa các thành phần này, phát huy tinh thần tương thân tương ái, ý thức trách nhiệm cộng đồng sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp, giúp vùng vượt qua những thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng, giải quyết hiệu quả các vấn đề xã hội nảy sinh từ quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa nhanh chóng, đồng thời khai thác tối đa tiềm năng và lợi thế của vùng để đóng góp ngày càng lớn vào sự phát triển chung của đất nước. Trên cơ sở thực tiễn vùng Đông Nam Bộ, có thể phát huy sức mạnh đại đoàn kết để phát triển một số lĩnh vực chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, vai trò đại đoàn kết dân tộc góp phần tạo dựng môi trường ổn định và thuận lợi cho phát triển kinh tế
Sức mạnh đại đoàn kết dân tộc đóng vai trò nền tảng trong việc kiến tạo một môi trường chính trị – xã hội ổn định, hòa bình và an ninh, yếu tố then chốt cho sự phát triển kinh tế bền vững tại vùng Đông Nam Bộ. Sự đồng thuận cao trong xã hội, thể hiện qua niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sự tôn trọng pháp luật và kỷ cương, tạo ra một bối cảnh thuận lợi cho các hoạt động kinh tế diễn ra hiệu quả. Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, trong giai đoạn 2020-2023, vùng Đông Nam Bộ duy trì chỉ số ổn định chính trị – xã hội ở mức cao (trên 90% theo đánh giá của các tổ chức nghiên cứu độc lập), góp phần thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lũy kế đạt trên 170 tỷ USD, chiếm tỷ trọng lớn nhất cả nước (khoảng 40% tổng vốn FDI đăng ký). Môi trường ổn định này giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư, khuyến khích các doanh nghiệp an tâm mở rộng sản xuất, kinh doanh và đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao, dịch vụ chất lượng cao, tạo ra động lực tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ cho vùng. Ngược lại, bất kỳ sự chia rẽ, mất đoàn kết nào có thể dẫn đến những bất ổn xã hội, gây ra gián đoạn trong hoạt động kinh tế, làm suy giảm niềm tin của nhà đầu tư và ảnh hưởng tiêu cực đến các chỉ số tăng trưởng kinh tế của vùng.
Thứ hai, vai trò của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong huy động và phát huy mọi nguồn lực cho phát triển vùng Đông Nam Bộ
Sức mạnh đại đoàn kết dân tộc đóng vai trò then chốt trong việc khơi thông và phát huy tối đa các nguồn lực đa dạng phục vụ cho sự phát triển kinh tế – xã hội của vùng Đông Nam Bộ. Sự đồng lòng, nhất trí của các tầng lớp nhân dân, các thành phần kinh tế và các cộng đồng dân tộc, tôn giáo tạo ra một môi trường thuận lợi để huy động các nguồn lực vật chất, trí tuệ và tinh thần. Cụ thể, khối đại đoàn kết vững chắc củng cố niềm tin của người dân và doanh nghiệp vào chủ trương, chính sách phát triển của vùng, khuyến khích họ tích cực tham gia đóng góp sức người, sức của vào các chương trình, dự án phát triển. Mặt khác, sự đoàn kết còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút đầu tư từ các thành phần kinh tế tư nhân trong nước, khi họ nhận thấy một môi trường kinh doanh ổn định, minh bạch và có sự đồng thuận cao trong xã hội. Bên cạnh đó, sức mạnh đại đoàn kết còn tạo điều kiện để huy động các nguồn lực xã hội khác như tri thức, kinh nghiệm của đội ngũ trí thức, sự tham gia tích cực của các tổ chức xã hội và cộng đồng vào các hoạt động phát triển kinh tế – xã hội, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp cho sự phát triển bền vững của vùng.
Thứ ba, vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong tạo dựng sự đồng thuận của xã hội và giảm thiểu các mâu thuẫn.
Đông Nam Bộ là một khu vực đa dạng về văn hóa, dân tộc và trình độ phát triển kinh tế. Khi các chủ thể trong xã hội, từ các cộng đồng dân cư, nhóm lợi ích đến các tổ chức chính trị – xã hội, xây dựng mối quan hệ dựa trên sự tôn trọng, thấu hiểu và hợp tác, sẽ tạo ra một nền tảng vững chắc cho sự đồng thuận trong các vấn đề chung của vùng. Sự đồng lòng này giúp các quyết sách phát triển kinh tế – xã hội nhận được sự ủng hộ rộng rãi từ cộng đồng, giảm thiểu những phản ứng tiêu cực hoặc sự phản kháng có thể phát sinh từ sự khác biệt về quan điểm hay lợi ích. Mặt khác, tinh thần đại đoàn kết còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc đối thoại, thương lượng và giải quyết các mâu thuẫn nảy sinh một cách hòa bình, trên cơ sở pháp luật và đảm bảo lợi ích chính đáng của các bên liên quan. Một xã hội có sự đồng thuận cao và ít xung đột sẽ tạo ra một môi trường ổn định, thu hút đầu tư và khuyến khích sự tham gia tích cực của người dân vào quá trình phát triển, từ đó thúc đẩy sự thịnh vượng chung của vùng Đông Nam Bộ.
Thứ tư, vai trò sức mạnh đại đoàn kết dân tộc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, tạo bản sắc riêng cho vùng.
Sức mạnh đại đoàn kết dân tộc đóng vai trò then chốt trong việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống đa dạng, tạo nên bản sắc đặc trưng cho vùng Đông Nam Bộ. Vốn là nơi hội tụ và giao thoa của nhiều cộng đồng dân tộc và văn hóa khác nhau, sự đoàn kết, tôn trọng và đề cao các giá trị văn hóa của mỗi cộng đồng không chỉ giúp duy trì sự phong phú trong đời sống tinh thần mà còn góp phần làm giàu thêm di sản văn hóa chung của vùng. Thông qua các hoạt động giao lưu văn hóa, lễ hội truyền thống, việc hỗ trợ và khuyến khích các hình thức nghệ thuật dân gian, tiếng nói, chữ viết của các dân tộc thiểu số, khối đại đoàn kết tạo ra một môi trường thuận lợi để các giá trị văn hóa được trao truyền, phát triển và lan tỏa. Bản sắc văn hóa độc đáo này không chỉ là niềm tự hào của người dân Đông Nam Bộ mà còn trở thành một yếu tố hấp dẫn, tạo lợi thế cạnh tranh trong phát triển du lịch văn hóa, góp phần vào sự phát triển kinh tế – xã hội bền vững của vùng.
Thứ năm, vai trò sức mạnh đại đoàn kết dân tộc giúp tăng cường sức mạnh nội sinh và khả năng ứng phó với các thách thức từ bên ngoài.
Sức mạnh đại đoàn kết dân tộc đóng vai trò như một nền tảng vững chắc, gia tăng nội lực và khả năng tự cường của vùng Đông Nam Bộ trước những biến động và thách thức từ bên ngoài. Khi các tầng lớp nhân dân, các thành phần kinh tế và các cộng đồng xã hội đồng lòng, tin tưởng và hỗ trợ lẫn nhau, vùng sẽ tạo ra một sức mạnh tổng hợp to lớn, giúp nâng cao khả năng tự chủ và giảm thiểu sự phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài. Tinh thần đoàn kết còn tạo ra sự thống nhất ý chí và hành động trong việc đối phó với các khó khăn kinh tế, xã hội, dịch bệnh hay những tác động tiêu cực từ hội nhập quốc tế. Sự đồng lòng này khuyến khích sự sáng tạo, đổi mới và tinh thần vượt khó trong cộng đồng, giúp vùng nhanh chóng thích ứng và phục hồi sau những thách thức, đồng thời tạo ra một môi trường ổn định và hấp dẫn cho sự phát triển bền vững trong dài hạn.

Một số giải pháp phát huy vai trò sức mạnh đại đoàn kết dân tộc ở Đông Nam Bộ hiện nay
Khơi dậy và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là một yếu tố then chốt, mang tính quyết định đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước một cách bền vững. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh giá trị cốt lõi của đoàn kết: “Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta, là cội nguồn sức mạnh để dân tộc ta mãi mãi trường tồn và phát triển, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, là đường lối chiến lược, có ý nghĩa sống còn của cách mạng Việt Nam” . Mặc dù vậy, trên con đường hiện thực hóa và phát huy sức mạnh to lớn này, chúng ta đang đối diện với những trở ngại và thách thức mới, bao gồm sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo, tình trạng bất bình đẳng xã hội, những mâu thuẫn về lợi ích và sự ảnh hưởng tiêu cực của thông tin sai lệch, gây suy yếu sự gắn kết trong cộng đồng. Thêm vào đó, những tư tưởng cực đoan, các hành vi kích động và chia rẽ cũng là những nguy cơ tiềm ẩn, cản trở việc phát huy tối đa sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhằm tiếp tục củng cố và phát triển sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hướng tới mục tiêu xây dựng một quốc gia ngày càng phồn vinh và hạnh phúc nói chung và phát triển toàn diện Đông Nam Bộ nói riêng, Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/11/2023 “Về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc” của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra một hệ thống các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể.
Thứ nhất, tăng cường nhận thức và trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị và Nhân dân về vai trò then chốt của đại đoàn kết, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục sâu rộng về truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết và trách nhiệm công dân, đồng thời củng cố đoàn kết nội bộ Đảng và toàn hệ thống, lắng nghe nhân dân, kịp thời ngăn chặn mọi âm mưu chia rẽ.
Thứ hai, hoàn thiện các chủ trương, chính sách về đại đoàn kết dựa trên thực tiễn và lợi ích chính đáng của nhân dân, bảo đảm gắn kết phát triển kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, tạo cơ hội phát triển cho mọi tầng lớp, trên nền tảng liên minh công – nông – trí thức.
Thứ ba, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, tăng cường đoàn kết nội bộ, giữ vững vai trò lãnh đạo hạt nhân trong xây dựng khối đại đoàn kết, đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, lãng phí, ngăn ngừa suy thoái tư tưởng, nâng cao năng lực, phẩm chất cán bộ và tăng cường gắn bó mật thiết với nhân dân.
Thứ tư, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, tạo cơ chế phát huy tiềm năng, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và quyền tham gia quản lý nhà nước của người dân.
Thứ năm, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tiềm năng và sức sáng tạo của nhân dân theo phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng, đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm công dân, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, tinh thần tự lực tự cường, chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và khoa học công nghệ.
Thứ sáu, nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội trong vận động quần chúng, xây dựng khối đại đoàn kết, thực hành dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội, giám sát, phản biện xã hội và huy động nguồn lực nhân dân.
Thứ bảy, tổ chức các phong trào thi đua yêu nước thiết thực, hiệu quả, kịp thời biểu dương, khen thưởng các điển hình tiên tiến, tạo sự đoàn kết, thống nhất và khơi dậy tiềm năng sáng tạo của nhân dân.
Cuối cùng, tăng cường đấu tranh chống lại mọi âm mưu chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực thù địch, nâng cao cảnh giác, trách nhiệm công dân và ý thức cộng đồng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ngày nay, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được phát huy mạnh mẽ, trở thành động lực quan trọng thúc đẩy công cuộc đổi mới toàn diện đất nước nói chung và khu vực Đông Nam Bộ nói riêng. Gần bốn thập kỷ thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đã mang lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, góp phần làm thay đổi diện mạo đất nước trên mọi lĩnh vực. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.” Những thành quả ấy chính là sự kết tinh của trí tuệ, sức sáng tạo và quá trình nỗ lực không ngừng nghỉ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, tất cả đều bắt nguồn từ nền tảng vững chắc của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây cũng chính là minh chứng rõ nét nhất cho tính đúng đắn, phù hợp và hiệu quả của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, một con đường được hun đúc từ truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết và khát vọng vươn lên mạnh mẽ của cả dân tộc trong thời đại mới.
Th.S. Lê Thị Thùy Linh & TS. Bùi Nghĩa/ Học viện Chính trị khu vực II
Tài liệu tham khảo
1.Nguyễn Phú Trọng: Phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr. 15, 17
2.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 34.
3.Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.23
4.Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, 24 /9/ 2015
5.Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.158
6.Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. l10.
7.https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/863803/gin-giu%2C-phat-huy-vai-tro-khoi-dai-doan-ket-toan-dan-toc%2C-huong-toi-muc-tieu-dan-giau%2C-nuoc-manh%2C-dan-chu%2C-cong-bang%2C-van-minh-theo-tinh-than-dai-hoi-xiii-cua-dang.aspx
8.https://baobinhphuoc.com.vn/news/1/24622/quan-diem-cua-dang-ve-dai-doan-ket-dan-toc-va-mat-tran-to-quoc-viet-nam
9.https://lyluanchinhtri.vn/phat-huy-suc-manh-dai-doan-ket-toan-dan-toc-xay-dung-dat-nuoc-phon-vinh-hanh-phuc-theo-tinh-than-nghi-quyet-trung-uong-8-khoa-xiii-6402.html.