Thứ Năm, Tháng 7 31, 2025
* Email: bbt.dongnama@gmail.com *Tòa soạn: 0989011688 - 0768908888
spot_img

Nhận diện các quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch trong thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam hiện nay



ĐNA -

Chính sách xã hội tại Việt Nam là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước. Trong quá trình thực hiện các chính sách xã hội ở Việt Nam, bên cạnh những thành tựu to lớn và nhân văn, các thế lực thù địch không ngừng gia tăng hoạt động chống phá bằng việc tung ra các luận điệu sai trái, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Nhận diện rõ các quan điểm sai lệch, bóp méo sự thật là yêu cầu cấp thiết nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng, củng cố niềm tin xã hội và giữ vững ổn định chính trị – xã hội trong bối cảnh hiện nay.

Báo chí góp phần lan tỏa các chính sách an sinh xã hội vào cuộc sống.

Chính sách xã hội tại Việt Nam là một bộ phận quan trọng của hệ thống chính sách phát triển vì con người, được nhà nước triển khai và thực hiện nhằm chăm lo cho con người, vì con người, lấy con người làm trung tâm, là chủ thể, mục tiêu, động lực, nguồn lực để phát triển bền vững đất nước, là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn xã hội, thể hiện đặc trưng, bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa; tăng trưởng kinh tế gắn với bảo đảm chính sách xã hội, tạo điều kiện để Nhân dân được thụ hưởng thành quả của sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với phương châm “không ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển”. Chính vì vậy, sau gần 40 năm đổi mới việc thực hiện các chính sách xã hội đã đạt được những thành tựu được nhân dân trong nước và quốc tế ghi nhận tin tưởng, ủng hộ.

Tuy nhiên, với những thành quả đạt được dưới sự nỗ lực của Đảng, Nhà nước và Nhân dân đạt được, các thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính trị vẫn lợi dụng những khó khăn trong quá trình thực hiện để xuyên tạc, phủ định, chống phá và nhằm phủ định những nỗ lực quyết tâm của Việt Nam đạt được trong quá trình thực hiện các chính sách xã hội. Vì vậy, cần nhận diện đấu ttranh, phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc trong thực hiện chính sách xã hội, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong thời gian tới.

Các chính sách trợ giúp xã hội được thiết kế hướng vào mục tiêu bao phủ hầu hết các nhóm đối tượng

Nhận diện các quan điểm sai trái thù địch, xuyên tạc về việc thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam
Thứ nhất, xuyên tạc phủ nhận thành quả của chính sách ưu đãi người có công với cách mạng.
Đi ngược lại với những giá trị tốt đẹp của dân tộc, các tổ chức phản động, đối tượng thù địch, phần tử xấu luôn tìm mọi âm mưu, thủ đoạn để xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với người có công với cách mạng. Chúng triệt để lợi dụng sự phát triển của Internet, mạng xã hội đẩy mạnh các hoạt động truyền thông, tuyên truyền kích động, chống phá, gây mất an ninh trật tự, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Ở một số địa phương, lợi dụng một số vướng mắc, bất cập trong thực hiện chế độ, chính sách đối với người có công, chúng xuyên tạc, vu cáo cho rằng Đảng và Nhà nước không quan tâm đến thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng. Nguy hiểm hơn, chúng lôi kéo, kêu gọi, tập hợp những người bất mãn, gây mất an ninh trật tự tại địa phương, những thủ đoạn trên tuy không phải chiêu trò mới nhưng nó làm suy giảm lòng tin của một bộ phận những người nhẹ dạ, cả tin đối với Đảng, Nhà nước; khoét sâu vào mất mát, nỗi đau chiến tranh, tổn thương của thân nhân gia đình liệt sĩ, thương binh, người có công với cách mạng. Có thể khẳng định rằng, đây là âm mưu, thủ đoạn của những kẻ phản động, đối tượng thù địch, phần tử xấu với những thành tựu, công lao của Đảng, Nhà nước đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, phủ định, xuyên tạc đổi trắng, thay đen về những thành tựu của chính sách giảm nghèo bền vững ở Việt Nam.
Trải qua gần 40 năm lãnh đạo và phát triển, Việt Nam được Liên Hiệp Quốc ghi nhận là điểm sáng trong công tác xóa đói, giảm nghèo. Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn ra sức xuyên tạc, phủ nhận, không khó để nhận thấy âm mưu của các đối tượng phản động trong việc thực hiện chiến thuật “mưa dầm thấm lâu” và “thay đổi thường xuyên, liên tục”. Họ thường xuyên làm giảm giá trị và phủ nhận những thành tựu quan trọng của công cuộc đổi mới đất nước thông qua các phương tiện truyền thông như đài phát thanh và các trang mạng xã hội phản động ở nước ngoài. Họ tuyên bố thành tựu về xoá đói giảm nghèo là “tự vẽ lên”, “không có thật”: Họ cho rằng những con số về giảm nghèo chỉ là “sản phẩm của tuyên truyền”, không phản ánh đúng thực tế đời sống của người dân. Họ lợi dụng những trường hợp người dân còn gặp khó khăn trong cuộc sống (nhà ở, việc làm, thu nhập thấp…), họ thổi phồng những vấn đề này, coi đó là đại diện cho toàn bộ bức tranh xã hội từ đó bôi nhọ thể chế. Đưa ra những so sánh thiếu căn cứ với các quốc gia phát triển mà không tính đến bối cảnh lịch sử, kinh tế, xã hội và điểm xuất phát của Việt Nam. Về chính sách, họ cáo buộc rằng các mục tiêu công bằng xã hội và xóa đói giảm nghèo chỉ tồn tại trên văn bản, không được thực hiện trong thực tiễn hoặc chỉ dành cho “quan chức” chứ không phải “dân đen”. Họ cho rằng đây là công cụ của Đảng và Nhà nước để duy trì quyền lực, chứ không phải xuất phát từ sự quan tâm thực sự đến đời sống nhân dân. Một số luận điệu còn cho rằng chính sách này tạo ra sự phân biệt đối xử, làm tăng khoảng cách giàu nghèo hoặc chỉ tập trung vào một số nhóm đối tượng nhất định mà bỏ qua những đối tượng khác.

Thứ ba, những luận điệu xuyên tạc về về các chính sách giáo dục và đạo tạo hiện nay
Chính sách Giáo dục và Đào tạo là lĩnh vực đặc biệt, có vai trò quyết định đến tiến trình phát triển lâu dài của đất nước, không những thế, nó còn tác động đến mọi gia đình, mọi con người trong xã hội. Do đó, đây là lĩnh vực các thế lực thường xuyên tìm cách tác động theo mục đích của “Diễn biến hòa bình”. Họ đã xuyên tạc đường lối lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực Giáo dục và Đào tạo. Một số yếu kém trong giáo dục được họ khai thác một cách triệt để, cho rằng những vấn đề đó là do sự lãnh đạo và quản lý không hiệu quả. Họ cáo buộc rằng giáo dục Việt Nam chỉ chú trọng “nhồi nhét lý luận chính trị”, “giáo dục công dân kiểu cũ” mà không chú trọng phát triển tư duy phản biện, kỹ năng sống, hay đáp ứng nhu cầu thị trường lao động. Họ cố tình phớt lờ những nỗ lực đổi mới chương trình, sách giáo khoa theo hướng phát triển năng lực người học, đẩy mạnh giáo dục STEM, hay ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy và học. Một số đối tượng còn lợi dụng những vấn đề bức xúc xã hội như tình trạng gian lận thi cử (đã được các cơ quan chức năng xử lý nghiêm minh) để quy kết là do “hệ thống giáo dục mục ruỗng”, “tham nhũng tràn lan”, nhằm hạ thấp uy tín của ngành giáo dục và toàn bộ hệ thống chính trị. Mục đích sâu xa của những luận điệu xuyên tạc này là tạo ra sự bất mãn, hoài nghi trong đội ngũ giáo viên, học sinh, sinh viên và phụ huynh, từ đó kích động họ tham gia vào các hoạt động chống đối. Bằng cách cố tình làm méo mó bức tranh giáo dục, các thế lực thù địch muốn phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và công sức xây dựng đất nước của nhân dân, gây chia rẽ khối đại đoàn kết và cản trở sự phát triển chung của đất nước

Thứ tư, cố tình đưa thông tin sai lệch về chính sách bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế gây hoang mang dư luận.
Chính sách y tế và chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH) đóng vai trò cực kỳ quan trọng, là hai trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội quốc gia. Chúng không chỉ trực tiếp tác động đến đời sống, sức khỏe và sự ổn định của mỗi cá nhân, gia đình mà còn có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển kinh tế – xã hội bền vững của đất nước. Trải qua quá trình đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, chính sách bảo hiểm xã hội và chính sách bảo hiểm y tế đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, là “phao cứu sinh” là trụ cột “an sinh xã hội” cho mọi tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, các thế lực thù địch đã đưa ra những luận điệu xuyên tạc, bóp méo về hai chính sách này của Đảng và Nhà nước ta. Một trong những luận điệu phổ biến là phủ nhận những nỗ lực và thành tựu trong việc mở rộng độ bao phủ và nâng cao quyền lợi của người dân. Mặc dù Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể trong việc phổ cập BHYT, với tỷ lệ bao phủ cao và quyền lợi khám chữa bệnh ngày càng được mở rộng; hay BHXH đã và đang là chỗ dựa vững chắc cho hàng triệu người lao động khi về già, ốm đau, tai nạn. Tuy nhiên, các thế lực thù địch lại cố tình lờ đi những thành tựu này, thay vào đó thổi phồng những hạn chế, tồn tại mang tính cục bộ hoặc những vấn đề đang trong quá trình hoàn thiện. Chẳng hạn, họ lợi dụng những trường hợp cụ thể về thủ tục hành chính còn rườm rà, sự cố phát sinh trong thanh toán BHYT, hay việc điều chỉnh chính sách BHXH để đảm bảo cân đối quỹ, để quy chụp thành “thiếu minh bạch”, “lợi dụng quỹ”, hay “đẩy gánh nặng cho người dân”. Họ cũng thường xuyên xuyên tạc về bản chất và mục tiêu của các quỹ an sinh xã hội. Thay vì nhìn nhận BHYT và BHXH là những trụ cột của chính sách an sinh xã hội, thể hiện tính nhân văn và trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm lo đời sống người dân, các đối tượng này lại vu khống rằng đây là “công cụ thu tiền dân”, “quỹ bị thất thoát”, hoặc “tiền đóng góp không được sử dụng hiệu quả”. Họ có thể đưa ra những so sánh khập khiễng với hệ thống an sinh của các nước phát triển mà không tính đến bối cảnh kinh tế – xã hội, mức độ phát triển hay cơ cấu dân số của Việt Nam. Thậm chí, có những luận điệu còn kích động người dân không tham gia BHYT, BHXH, hoặc yêu cầu “rút BHXH một lần” mà không phân tích rõ những hệ lụy lâu dài đối với quyền lợi an sinh của chính người lao động. Mục đích cuối cùng của những hoạt động xuyên tạc này là gây mất niềm tin của nhân dân vào các chính sách của Nhà nước, tạo ra sự chia rẽ giữa người dân với Đảng và Chính phủ, và kích động tâm lý bất mãn, chống đối nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây bất ổn xã hội.

Thứ năm, luận điệu xuyên tạc về thực hiện các chính sách lao động, việc làm ở Việt Nam.
Sau gần 40 năm Đổi mới (từ năm 1986 đến nay), Việt Nam đã đạt được những thành tựu vượt trội trong lĩnh vực lao động, việc làm, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế – xã hội và nâng cao đời sống nhân dân. Một trong những thành tựu nổi bật nhất là khả năng tạo ra số lượng lớn việc làm cho người lao động. Nhờ chính sách mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hàng chục triệu người đã có việc làm ổn định, đặc biệt trong các ngành công nghiệp, dịch vụ. Tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam liên tục được duy trì ở mức thấp, thường xuyên dưới 3% trong độ tuổi lao động, một con số đáng mơ ước so với nhiều nền kinh tế trên thế giới. Ngay cả trong giai đoạn dịch bệnh COVID-19, thị trường lao động Việt Nam cũng cho thấy khả năng phục hồi nhanh chóng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các thế lực thù địch vẫn không ngừng sử dụng các luận điệu xuyên tạc nhằm phủ định những thành quả của chính sách lao động việc làm, gây hoài nghi, bất mãn trong đội ngũ công nhân, người lao động, làm xói mòn niềm tin của họ vào chính sách của Đảng, phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, và cản trở sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước

Một trong những luận điệu phổ biến nhất là phủ nhận những thành tựu to lớn trong giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và cải thiện điều kiện lao động cho người dân. Trong khi Việt Nam đã đạt được những kết quả ấn tượng về tăng trưởng việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống mức thấp, và liên tục điều chỉnh tăng lương tối thiểu vùng, các đối tượng này lại cố tình lờ đi thực tế đó. Thay vào đó, họ thổi phồng những khó khăn mang tính cục bộ như tình trạng lao động mất việc do biến động kinh tế toàn cầu, hoặc những vụ việc tranh chấp lao động đơn lẻ, rồi quy chụp thành vấn đề có tính hệ thống, cho rằng chính sách lao động của Việt Nam là “thất bại”, “không hiệu quả”, hay “không đảm bảo quyền lợi cho người lao động”.

Họ cũng thường xuyên xuyên tạc về bản chất của quan hệ lao động và vai trò của tổ chức công đoàn. Thay vì nhìn nhận quan hệ lao động ở Việt Nam là mối quan hệ hợp tác, cùng phát triển giữa người sử dụng lao động và người lao động dưới sự quản lý của Nhà nước, họ lại bóp méo thành “quan hệ bóc lột”, “chế độ công nhân bị áp bức”. Các thế lực thù địch thường đả kích, xuyên tạc về vai trò của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, cho rằng tổ chức này “không bảo vệ được quyền lợi cho công nhân”, “chỉ là công cụ của Đảng và Nhà nước”, nhằm mục đích kích động công nhân từ bỏ tổ chức công đoàn chính thống, tham gia vào các tổ chức “công đoàn độc lập” do chúng dựng lên. Những tổ chức này thường có mục tiêu chính trị sâu xa, lợi dụng vấn đề lao động để gây rối, phá hoại an ninh trật tự.

Chính vì vậy, việc nhận diện các quan điểm sai trái và xuyên tạc liên quan đến chính sách xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua cho thấy, các thế lực thù địch và phản động thường lợi dụng những hạn chế và thiếu sót trong nội dung, cũng như trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách xã hội. Thông qua việc phân tích thông tin một cách phiến diện và chỉ dựa vào những hiện tượng cá biệt, họ đã quy kết và khẳng định rằng Việt Nam đang gặp phải “lỗi hệ thống”. Đây là một thủ đoạn quen thuộc mà các thế lực thù địch và những kẻ cơ hội thường sử dụng. Họ cố tình biến chính xã hội thành cái cớ để kích động, vu khống, nhằm phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng và tiến tới xóa bỏ những thành tựu cách mạng của dân tộc. Các loại ý kiến này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và cùng hướng tới một mục tiêu chung: chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Để đấu tranh và phản bác hiệu quả những quan điểm sai trái và xuyên tạc liên quan đến chính sách xã hội, cần thực hiện một cách kiên trì và đồng bộ nhiều biện pháp khác nhau.

Chính sách xã hội tại Việt Nam là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước.

Những luận cứ đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch, xuyên tạc về chính sách xã hội ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, về cơ sở chính trị
Quan điểm của Đảng ta về chính sách xã hội luôn xuất phát từ thực tiễn vì lợi ích của nhân dân, tạo điều kiện để mỗi người dân có cơ hội hưởng thụ những thành quả của quá trình phát triển, hướng tới sự công bằng, bình đẳng và phát triển con người toàn diện, đặc biệt là những nhóm người dễ bị tổn thương để “không ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển”.

Thực tiễn đã chứng minh, với cơ sở chính trị, trong các quan điểm của Đảng ta về chính sách xã hội thường thể hiện rõ trong các văn kiện qua các thời kỳ, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới. Đại hội VI đã nhấn mạnh: “Cần có chính sách xã hội cơ bản, lâu dài và xác định những nhiệm vụ, mục tiêu phù hợp với yêu cầu, khả năng trong chặng đường đầu tiên. Đó là một bước tiến mới trong nhận thức về chính sách xã hội của Đảng” . Đại hội VII khẳng định vị trí, vai trò của chính sách xã hội “Huy động mọi khả năng của Nhà nước và của nhân dân, trung ương và địa phương để giải quyết các vấn đề của chính sách xã hội” . Trong đó, “Nhà nước giữ vai trò nòng cốt”  và “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển”  thông qua “Tạo môi trường và điều kiện để mọi lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn…” . Các đại hội VIII, IX, X, XI tiếp tục khẳng định vai trò, nhiệm vụ của chính sách xã hội: “Kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách; phát triển hài hòa đời sống vật chất và đời sống tinh thần” . Để thực hiện tốt mục tiêu công bằng trong các chính sách xã hội, Đảng ta nhấn mạnh chính sách xã hội phải phù hợp với từng đối tượng, từng giai cấp, tầng lớp trong xã hội

Đại hội XII đặt ra quan điểm phát triển xã hội bền vững, đồng thời, Đảng ta khẳng định: “Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước” .  Kế thừa và phát triển các thành quả đạt được trong các kỳ đại hội trước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (năm 2021) khẳng định: “Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân”

Đặc biệt trong dự thảo các Văn kiện trình đại hội XIV của Đảng nhấn mạnh “Xây dựng hệ thống chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người theo hướng bao trùm, công bằng, bền vững, lấy con người và bảo đảm quyền con người là trung tâm; ưu tiên các đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế và đối tượng trong khu vực phi chính thức, “không để ai bị bỏ lại phía sau””. “Thực hiện giảm nghèo nhanh và bền vững, bảo đảm mức sống của người có công và gia đình chính sách. Thực hiện bình đẳng giới; chăm sóc, bảo vệ người già và trẻ em. Nhất là trẻ em gái. Phát triển thị trường lao động linh hoạt, đồng bộ, hiện đại và hội nhập. Thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, các tầng lớp dân cư, thúc đẩy xã hội phát triển bền vững” .

Thứ hai, quan điểm của Đảng về chính sách xã hội đã được thể chế hoá trong hệ thống pháp luật
Quan điểm của Đảng về chính sách xã hội đã được hiện thực hóa trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật Việt Nam. Hệ thống chính sách xã hội ngày càng được cải thiện và mở rộng, nhằm bao phủ các nhóm đối tượng ở mọi lứa tuổi. Chính sách này hỗ trợ cho những người nghèo và các nhóm đối tượng khác như: người cao tuổi (theo Luật Người cao tuổi 2009), người khuyết tật (theo Luật Người khuyết tật 2010), trẻ em (theo Luật Bảo vệ, chăm sóc trẻ em sửa đổi năm 2016 thành Luật Trẻ em), và Luật Phòng, chống nhiễm virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) sửa đổi năm 2020, cùng nhiều văn bản dưới luật khác hướng dẫn thực hiện chính sách TGXH cho các nhóm xã hội dễ bị tổn thương.

Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi năm 2014 quy định: “Mở rộng diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao động làm việc có hợp đồng từ 01 tháng trở lên; tăng cường chế tài đối với việc trốn đóng bảo hiểm xã hội; hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện theo hướng linh hoạt và phù hợp với điều kiện về việc làm và thu nhập của lao động trong khu vực phi chính thức; hỗ trợ, khuyến khích người lao động nghèo, khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội hiện đại hóa công tác quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội”.

Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg ngày 12-12-2008 của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ nhà ở cho người nghèo; Quyết định số 716/QĐ-TTg ngày 14-6-2012 của Thủ tướng chính phủ về việc triển khai thí điểm giải pháp hỗ trợ hộ nghèo nâng cao điều kiện an toàn chỗ ở, ứng phó với lũ, lụt vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung; Quyết định số 67/2010/QĐ TTg ngày 29-10-2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg ngày 12-12-2008 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở; Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27-11-2009 của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số 46/2015/QĐ-TTg ngày 28-9-2015 của Thủ tướng Chính phủ quy định chính sách hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp, đào tạo dưới 3 tháng.

Ngoài ta, còn nhiều chính sách khác như hỗ trợ phát triển hộ kinh doanh, lao động, doanh nghiệp, miễn phí học phí cho học sinh câp 1,2,3, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn…

Thứ ba, cơ sở thực tiễn về thành tựu bảo đảm chính sách xã hội ở Việt Nam.
Trong thời gian qua, các chính sách xã hội không ngừng được hoàn thiện theo hướng tiến bộ và công bằng. Chính sách ưu đãi, tôn vinh đối với người có công với cách mạng được chú trọng, thực hiện tốt. Với vai trò chủ đạo, Nhà nước đã bảo đảm ngân sách để chi trả trợ cấp ưu đãi đối với người có công. Nguồn kinh phí đảm bảo thực hiện ưu đãi xã hội hằng năm được điều chỉnh căn cứ vào tình hình kinh tế – xã hội của đất nước và khả năng đáp ứng ngân sách. Đời sống người có công không ngừng được nâng lên, mức chuẩn trợ cấp cho đối tượng này tăng. Chính sách giảm nghèo bền vững đạt nhiều kết quả tích cực, được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao; các giải pháp, chính sách giảm nghèo bền vững được triển khai hiệu quả theo tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau”; tỷ lệ hộ nghèo giảm 1%, còn 1,93% (Báo cáo của Chính phủ tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV) .

Chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế ngày càng khẳng định vai trò trụ cột trong bảo đảm an sinh xã hội. Tính đến hết tháng 8/2024, toàn quốc có trên 18,742 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội, tăng 8,79% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, số người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là 16,889 triệu người, tăng 6,83%; số người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là 1,852 triệu người, tăng 30,65% so với cùng kỳ năm 2023. Về số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp, toàn quốc có 15,175 triệu người; tăng 7,61% so với cùng kỳ năm 2023. Số người tham gia bảo hiểm y tế là 92,972 triệu người; tăng 1,64% so với cùng kỳ năm 2023. Lũy kế đến hết tháng 8/2024, số tiền thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế của toàn ngành đạt 333.029 tỷ đồng, tăng 12,3% so với cùng kỳ năm 2023 (Báo cáo Bảo hiểm xã hội Việt Nam, 2024)

Hệ thống cơ sở y tế, giáo dục, trợ giúp xã hội tiếp tục được đầu tư, mở rộng, nâng cao chất lượng góp phần bảo đảm giáo dục, y tế, nhà ở tối thiểu, nước sạch, thông tin cơ bản cho Nhân dân; người có hoàn cảnh khó khăn được hỗ trợ kịp thời (Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XIII), 2023). Chất lượng khám, chữa bệnh từng bước được nâng lên; kiểm soát tốt các loại dịch bệnh. Không ngừng nâng cao kỹ thuật chuyên môn sâu, làm chủ nhiều kỹ thuật cao, nhất là ghép tạng. Chuyển đổi số và khám chữa bệnh từ xa được đẩy mạnh; y tế tư nhân tiếp tục phát triển. Các cơ sở y tế tư nhân phát triển cả về số lượng và quy mô; đến nay có 372 bệnh viện tư nhân, chiếm 23,84% tổng số bệnh viện.

Việc làm cho người lao động cơ bản được bảo đảm, tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị thấp. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ năm 2024 ước đạt 28,1%, tăng 1,3%. Tính chung 9 tháng năm 2024, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 52,5 triệu người, tăng 210,6 nghìn người so với cùng kỳ; lao động có việc làm là 51,4 triệu người, tăng 212 nghìn người. Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 2,38%, giảm 0,17% so với cùng kỳ. Thu nhập bình quân người lao động đạt khoảng 7,6 triệu đồng/tháng, tăng 7,4% (Báo cáo của Chính phủ tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV) .

Đây có thể xem là những thành tựu trong việc thực hiện các chính sách xã hội của Việt Nam trong thời gian qua, minh chứng để phản bác lại các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch xuyên tạc về về thực hiện các chính sách xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Một số giải pháp đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch trong thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam
Đảm bảo việc thực hiện các chính sách xã hội là mục tiêu xuyên suốt của Đảng và nhà nước ta trong suốt quá trình phát triển nhằm hướng tới một xã hội công bằng, bình đẳng và phát triển con người toàn diện, đây là bản chất ưu việt của chế độ. Chính vì vậy, trước những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, cần phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc để phủ nhận về những thành quả trong việc thực hiện các chính sách xã hội ở Việt Nam cần tập trung một số giải pháp sau:

Thứ nhất, cần tiếp tục quán triệt, nâng cao nhận thức xã hội và thực hiện nhất quán, hiệu quả các quan điểm chỉ đạo của Đảng về chính sách xã hội. Đồng thời luôn cảnh giác, nắm chắc tình hình, thủ đoạn của các thế lực thù địch, âm mưu “diễn biến hòa bình”, lợi dụng dân chủ, nhân quyền để chống phá Việt Nam, chủ động có phương pháp đấu tranh thích hợp. Thực tiễn, cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng diễn ra rất quyết liệt, khó khăn, phức tạp, nhạy cảm, liên quan đến vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự do, tôn giáo, dân tộc, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Việc nhanh chóng cụ thể hóa, thể chế hóa các quan điểm chỉ đạo của Đảng để tăng cường, hoàn thiện cơ sở pháp lý thông qua hệ thống luật pháp, các văn bản chỉ đạo của Nhà nước, của Chính phủ và các cơ quan chức năng quản lý nhà nước về an ninh, trật tự là yêu cầu tất yếu, phù hợp với xu thế của thời đại ngày nay.

Thứ hai, nêu cao ý thức cảnh giác cách mạng và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ đảng viên; kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch với công tác bảo vệ chính trị nội bộ, phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa. Tiếp tục phát huy tính chủ động, kịp thời nhận diện, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc chính sách xã hội của Việt Nam, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cho mọi tầng lớp nhân dân.

Thứ ba, đổi mới công tác tuyên truyền, thông tin đối ngoại về thành tựu thực hiện chính sách xã hội trong từng giai đoạn và thời kỳ phát triển. Phát huy trách nhiệm, hiệu quả hoạt động của các cơ quan truyền thông, báo chí trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc chính sách xã hội của Việt Nam.

Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về chính sách xã hội, bảo đảm nguyên tắc lấy con người làm trung tâm; bảo đảm chính sách xã hội là quyền lợi cơ bản của mỗi công dân. Đồng thời, tổ chức thực hiện có hiệu quả chính sách xã hội; kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm chính sách xã hội.

Chính sách xã hội có vai trò quan trọng, là mục tiêu, động lực trong phát triển bền vững đất nước, những thành tựu trong việc thực hiện các chính sách xã hội là minh chứng rõ nhất cho bản chất ưu việt của chế độ ta.  Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong thực hiện chính sách xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ trước sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động và yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Càng ngày, hoạt động tuyên truyền phá hoại tư tưởng, phá hoại nội bộ Đảng của các thế lực thù địch diễn ra với quy mô, cường độ ngày càng lớn; các thủ đoạn lừa đảo người dân ngày càng tinh vi, đa dạng… Những hoạt động đó đã tác động tiêu cực tới tư tưởng, nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân; gây tâm lý hoang mang, nghi ngờ, làm suy giảm lòng tin vào đất nước, vào vai trò lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, mỗi Đảng viên, người dân phải nhận diện, đấu tranh và phản bác lại những luận điệu của các thế lực thù địch trong việc thực hiện các chính sách xã hội trong giai đoạn hiện nay và các giai đoạn tiếp theo của quá trình phát triển đất nước./.

Th.S. Lê Thị Thùy Linh & TS. Bùi Nghĩa/ Học viện Chính trị khu vực II

Danh mục tài liệu tham khảo

  1. Đàng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự Thật Hà Nội, 1987, Tr.86.
  2. Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t. 51, tr. 47
  3. Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 55, tr. 398
  4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 101
  5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 80
  6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011,tr.79.
  7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H, 2016, tr.134-135
  8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t. 1,Nxb CTQG, H,2021, tr.47, tr.147-148
  9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Dự thảo Các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, NXB Chính trị Quốc gia Sự Thật, Hà Nội, Tháng 12/2025, Tr.29.
  10. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/10/24/tiep-tuc-doi-moi-nang-cao-chat-luong-chinh-sach-xa-hoi-dap-ung-yeu-cau-su-nghiep-xay-dung-va-bao-ve-to-quoc-trong-giai-doan-moi/
  11. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/10/24/tiep-tuc-doi-moi-nang-cao-chat-luong-chinh-sach-xa-hoi-dap-ung-yeu-cau-su-nghiep-xay-dung-va-bao-ve-to-quoc-trong-giai-doan-moi/
  12. Dẫn theo https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/10/24/tiep-tuc-doi-moi-nang-cao-chat-luong-chinh-sach-xa-hoi-dap-ung-yeu-cau-su-nghiep-xay-dung-va-bao-ve-to-quoc-trong-giai-doan-moi/
  13. http://doanhnghieptrunguong.vn/giai-bua-liem-vang/202411/bai-du-thi-giai-bua-liem-vang-khoi-doanh-nghiep-trung-uong-nam-2024-nhan-diendau-tranh-phan-bac-cac-quan-diem-sai-trai-thu-dich-bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang-5816296