Thứ Sáu, Tháng 8 8, 2025
* Email: bbt.dongnama@gmail.com *Tòa soạn: 0989011688 - 0768908888
spot_img

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại thành phố Hồ Chí Minh, động lực cho sự phát triển bền vững



ĐNA -

Thành phố Hồ Chí Minh, với vai trò là đầu tàu kinh tế của Việt Nam, nổi bật với hạ tầng phát triển nhanh và tập trung nhiều ngành nghề, doanh nghiệp, trung tâm nghiên cứu khoa học kỹ thuật hàng đầu của đất nước. Trước bối cảnh kinh tế toàn cầu tăng trưởng và cạnh tranh khốc liệt, việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành yếu tố quyết định sự thành công và bền vững của thành phố.

TP.HCM đang rất cần nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó có lĩnh vực tự động hóa, điện tử.

Nguồn nhân lực chất lượng cao không chỉ giữ vai trò then chốt trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất và năng suất lao động, mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng, đổi mới sáng tạo và tăng cường năng lực cạnh tranh của thành phố. Bài viết tập trung phân tích thực trạng nguồn nhân lực tại TP.Hồ Chí Minh, những thách thức trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và đề xuất các giải pháp nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững của thành phố.

Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật lớn nhất của Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của đất nước. Với tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, sự chuyển đổi mạnh mẽ của nền kinh tế sang công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành yếu tố then chốt để thành phố duy trì và nâng cao vị thế cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa, nền kinh tế tri thức ngày càng phát triển, yêu cầu về một lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao, kỹ năng linh hoạt và sáng tạo đang trở thành một thách thức lớn đối với TP.HCM. Các ngành công nghiệp mũi nhọn như công nghệ thông tin, tài chính, dịch vụ chất lượng cao, y tế, giáo dục đòi hỏi một nguồn nhân lực không chỉ đáp ứng yêu cầu về số lượng mà còn phải đảm bảo chất lượng về năng lực chuyên môn, khả năng sáng tạo và thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ và thị trường. Chính vì vậy, việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao không chỉ là một nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan nhà nước, mà còn là sự hợp tác của các doanh nghiệp, các trường đại học, tổ chức đào tạo và các thành phần xã hội khác. Mặc dù TP.HCM đã có nhiều nỗ lực trong việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết, từ việc cải thiện chất lượng giáo dục đào tạo, đến việc thu hút và giữ chân nhân tài trong các ngành công nghiệp chiến lược. Do đó nghiên cứu sự phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại TP.HCM là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

Tổng quan tình hình nghiên cứu

Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực tại TP.HCM. Bài viết “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh trở thành trung tâm kinh tế, tài chính của châu Á” của Hoàng Thùy Linh và cộng sự, 2024. Tác giả đề cập một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng NNL của thành phố như xây dựng thang giá trị nguồn nhân lực, coi trọng giáo dục và đào tạo, có chính sách trọng dụng nhân tài phù hợp. Công trình “Phát triển nguồn nhân lực Thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư” của Nguyễn Thị Cành, 2021. Tác giả đề cập đến thực trạng chất lượng nguồn nhân lực TP.HCM từ 2011-2019; tác giả cũng dự báo xu hướng phát triển nguồn nhân lực dưới tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhấn mạnh nhân lực của TP.HCM sẽ chiếm vị trí cao trong khu vực dịch vụ, từ đó đưa ra các giải pháp phát triển nguồn nhân lực TP.HCM đáp ứng cách mạng công nghệp lần thứ tư. Bài viết “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao TP. Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững” của Hoàng Văn Tú, 2024. Tác giả đưa ra một số nội dung về thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao, đánh giá những tồn tại hạn chế nguồn nhân lực chất lượng cao, từ đó đề cập một số khuyến nghị, giải pháp. Công trình “Phát triển nguồn nhân lực hội nhập quốc tế ở TP. Hồ Chí Minh” của Nguyễn Thanh Phong và cộng sự, 2024. Tác giả nhấn mạnh thực tiễn phát triển nguồn nhân lực hội nhập quốc tế tại TP. HCM và một số giải pháp. Ngoài ra, còn có các công trình khác như: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại TP.HCM (Lệ, 2023), Đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở thành phố Hồ Chí Minh (Hoa, 2023), Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở thành phố Hồ Chí Minh (Chi, 2021), Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển đô thị thông minh bền vững tại TP. Hồ Chí Minh (Hồng, 2023)…Các công trình nghiên cứu nói chung đề cập đến nguồn nhân lực TP. HCM trong thời gian gần đây. Đây chính là cơ sở để tác giả kế thừa, tiếp thu và tiếp tục định hướng nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại TP.HCM.

Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Thực trạng nguồn nhân lực tại TP.Hồ Chí Minh

Cơ cấu nguồn nhân lực

Dân số trung bình năm 2010 đạt 7.401.781 người (Cục thống kê Tp. Hồ Chí Minh, 2021, tr.48), năm 2023 đạt 9,46 triệu người, trong đó, dân số tại khu vực thành thị chiếm 77,7% với 7,34 triệu người; dân số tại khu vực nông thôn chiếm 22,3% với 2,11 triệu người, dân số là nam giới chiếm 48,5% với 4,58 triệu người và dân số là nữ giới chiếm 51,5% với 4,87 triệu người. Như vậy, dân số của TP.HCM  từ năm 2010- 2023 đạt mức tăng trưởng 27,8%, đây là mức tăng trưởng khá cao. Quy mô GRDP theo giá hiện hành năm 2023 đạt 1.621.190 tỷ đồng, tương đương 68,1 tỷ USD; GRDP bình quân đầu người đạt 171,4 triệu, tương đương 7.204 USD. Về cơ cấu GRDP năm 2023: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 0,51%, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 21,83%, khu vực dịch vụ chiếm 64,92% (Cục thống kê TP.Hồ Chí Minh, 2024, tr.7- 9). Với cơ cấu GRDP hiện tại, cho thấy nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ và hiện đại hóa, quy mô nền kinh tế lớn và cao hơn so với các tỉnh khác trong khu vực.

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của thành phố tăng dần qua các năm. Đến năm 2020, do ảnh hưởng của đại dịch Covid nên có xu hướng giảm xuống và đến 2023 theo đà tăng trở lại. Năm 2023, đạt 4,84 triệu người, thấp hơn so với các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, song cao hơn các tỉnh còn lại trong khu vực. Trong đó, lực lượng lao động tại khu vực thành thị chiếm 77,3% (3.745.673 người), khu vực nông thôn chiếm 22,7% (1.097.917 người). Về giới tính, nam giới chiếm 53,5% (2.592.700 người) và nữ giới chiếm 46,5% (2.250.890 người) tổng lực lượng lao động (Cục thống kê TP.Hồ Chí Minh, 2024, tr.71). Số lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế của Thành phố đạt 4,67 triệu người, chiếm 96,4% tổng lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên. Phân theo khu vực, lao động trong khu vực Nhà nước chiếm 8,0% (374.442 người), khu vực tư nhân chiếm 83,5% (3.895.463 người) và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 8,5% (396.914 người) (Cục thống kê TP.Hồ Chí Minh, 2024, tr.73). Qua đó thấy rõ vai trò quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân đối với sự phát triển kinh tế xã hội của thành phố, vừa đóng góp vào tỷ lệ tăng trưởng chung và tạo ra việc làm cho người lao động.

Biểu 1. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên vùng Đông Nam Bộ (2019-2023). Đơn vị: Nghìn người

Nguồn: Tổng cục thống kê 2024

Phân theo nghề nghiệp, Dịch vụ cá nhân, bảo vệ bán hàng chiếm số lượng đông đảo nhất đạt 1.468.452 người; Thợ lắp ráp và vận hành máy móc, thiết bị đạt 952.897 người; Chuyên môn kỹ thuật bậc cao đạt 797.091 người; thấp nhất là Nghề trong nông, lâm, ngư nghiệp 42.756 người; Nhà lãnh đạo 43.010 người. Như vậy, số lao động trong các ngành dịch vụ cá nhân, bảo vệ và bán hàng chiếm tỷ trọng lớn, phản ánh vai trò của TP.HCM là trung tâm thương mại và dịch vụ hàng đầu cả nước. Ngành lắp ráp và vận hành máy móc đóng vai trò quan trọng, phù hợp với sự phát triển của khu công nghiệp và các doanh nghiệp FDI. Số lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật bậc cao và bậc trung khá lớn, cho thấy nền kinh tế thành phố yêu cầu nguồn nhân lực chất lượng. Nghề nông, lâm, ngư nghiệp chiếm tỷ lệ rất thấp, thể hiện mức độ đô thị hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ. Trong khi đó các nghề như Chuyên môn kỹ thuật bậc trung (262.030 người), Thợ thủ công và các thợ khác có liên quan (523.824 người), Nhân viên (140.782 người) chiếm số lượng tương đối thấp. Điều này cho thấy, thành phố đang thiếu hụt lực lượng lao động có tay nghề, kỹ thuật.

Biểu 2. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc hàng năm phân theo nghề nghiệp TP.HCM 2023. Đơn vị: Người

Nguồn: Cục thống kê TP.Hồ Chí Minh 2024.

Phân theo vị thế việc làm, nhân lực Làm công ăn lương (3.126.684 người) ở vị trí cao nhất, Tự làm (1.189.101 người), Lao động gia đình (227.112 người), Chủ cơ sở (123.373 người), Xã viên hợp tác xã (549 người) (Cục thống kê TP.Hồ Chí Minh, 2024, tr.78). Điều này cho thấy, phần lớn lao động làm công ăn lương, phù hợp với xu hướng phát triển của một nền kinh tế đô thị hóa và công nghiệp hóa.

Biểu 3. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc hàng năm phân theo vị thế việc làm TP.Hồ Chí Minh năm 2023. Đơn vị: Người.

Nguồn: Cục thống kê TP.Hồ Chí Minh 2024.

Theo Cục thống kê, năm 2015 số doanh nghiệp đang hoạt động là 149.247 doanh nghiệp, đến năm 2022, số doanh nghiệp đang hoạt động 219.898 doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp nhà nước có 264 doanh nghiệp (0,2%), ngoài nhà nước có 212.078 doanh nghiệp (96,4%), Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có 7.556 doanh nghiệp (3,4%) (Cục thống kê TP.HCM, 2024, tr.184). Ở đây, chúng ta nhận thấy, số doanh nghiệp nhà nước số lượng rất nhỏ và tiếp tục giảm dần qua các năm, phản ánh xu hướng cổ phần hóa và chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước sang khu vực tư nhân hoặc liên doanh với nước ngoài. Nó cũng phản ánh xu hướng chung của cả nước, khi vai trò của doanh nghiệp nhà nước ngày càng giảm, tập trung vào các lĩnh vực chiến lược hoặc cần sự quản lý nhà nước trực tiếp. Đối với doanh nghiệp ngoài nhà nước, là khu vực chiếm ưu thế, góp phần chính vào sự phát triển kinh tế của thành phố. Sự gia tăng mạnh mẽ của doanh nghiệp tư nhân cho thấy môi trường kinh doanh cởi mở, khuyến khích đầu tư từ các cá nhân và tổ chức trong nước. Khu vực tư nhân đang trở thành động lực chính của nền kinh tế, nhờ chính sách khuyến khích khởi nghiệp, cải thiện môi trường kinh doanh và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Sự chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước sang tư nhân hoặc cổ phần hóa đã góp phần thúc đẩy khu vực này. doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), mặc dù tỷ lệ không lớn, nhưng các doanh nghiệp FDI đóng vai trò quan trọng nhờ vốn đầu tư cao, công nghệ hiện đại và thúc đẩy xuất khẩu. Điều này một phần là do các chính sách ưu đãi đầu tư, hội nhập quốc tế (FTA, CPTPP) và sự phát triển hạ tầng đã giúp TP.Hồ Chí Minh trở thành điểm đến đầu tư hấp dẫn. Như vậy, cơ cấu doanh nghiệp phản ánh sự chuyển dịch kinh tế năng động, với khu vực doanh nghiệp tư nhân và FDI đóng vai trò chủ lực, trong khi doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Tuy nhiên, để phát triển bền vững hơn, cần chú trọng hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, cải thiện môi trường đầu tư và thu hút nhiều hơn vốn FDI chất lượng cao.

Theo điều tra doanh nghiệp, số lao động trong các doanh nghiệp đang hoạt động phân theo loại hình doanh nghiệp tại TP.HCM năm 2015 là 2.750.747 người, đến năm 2020 là 2.813.212 người (đạt 102,27%, tức tăng khoảng 2,27% ) và năm 2022 là 2.872.436 người (đạt 102,11%, tức tăng khoảng 2,11% so với năm 2020). Trong đó, năm 2022, doanh nghiệp nhà nước 141.274 người (4,9%), doanh nghiệp ngoài nhà nước 2.015.390 người (70,2%), doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 715.772 người (24,9%). Như vậy, số lao động trong doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm, tăng trong các khu vựa ngoài nhà nước và có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này cho thấy, có sự chuyển dịch lao động từ khu vực Nhà nước sang khu vực tư nhân và doanh nghiệp FDI, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế thị trường. Sau đại dịch COVID-19, số lao động trong các DN giảm nhẹ giai đoạn 2020–2021, sau đó phục hồi vào năm 2022. Tỷ trọng lao động trong doanh nghiệp ngoài Nhà nước vẫn chiếm đa số (70,2%), là trụ cột trong việc tạo việc làm và khẳng định vai trò quan trọng của khu vực này đối với sự phát triển của TP.Hồ Chí Minh; Tăng trưởng lao động ở khu vực FDI khẳng định vai trò của TP.HCM là trung tâm thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt trong giai đoạn hội nhập quốc tế.

Bảng 1. Số lao động trong các doanh nghiệp đang hoạt động phân theo loại hình doanh nghiệp Tp. Hồ Chí Minh (2015-2022)

Nguồn: Cục thống kê Tp. Hồ Chí Minh 2020 – 2024.

Theo điều tra doanh nghiệp, năm 2022, lao động trong ngành Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản  12.619 người (0,4%). Điều này phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ chung của cả nước. Ngành Dịch vụ 1.796.764 người (62,6%), là khu vực chủ đạo trong nền kinh tế của thành phố, phù hợp với tính chất của một trung tâm kinh tế – dịch vụ hàng đầu cả nước. Đây là khu vực dịch vụ có số lao động lớn nhất, phản ánh đặc trưng kinh tế của TP.HCM là trung tâm thương mại, tài chính, du lịch và logistics. Ngành Công nghiệp và xây dựng: 1.063.053 người (37%), đây là khu vực kinh tế lớn thứ hai, cho thấy TP.HCM vẫn duy trì vị thế quan trọng trong công nghiệp chế biến, chế tạo và xây dựng. Tỷ trọng lao động cao ở ngành này phản ánh sự phát triển hạ tầng đô thị và hoạt động sản xuất tại các khu công nghiệp.

Biểu 4. Số lao động trong các doanh nghiệp đang hoạt động phân theo ngành kinh tế TP.Hồ Chí Minh năm (2019-2022). Đơn vị: Người

Nguồn: Cục thống kê TP.Hồ Chí Minh 2024.

Phân bố lao động trong các doanh nghiệp đang hoạt động theo đơn vị hành chính, năm 2022 đạt 2.872.436 người lao động nữ là 1.291.628 người (Cục thống kê TPHồ Chí Minh, 2024, tr.191-195).  Trong đó Quận 1, dẫn đầu với 16,51% tổng lao động. Điều này phản ánh vai trò trung tâm của Quận 1 trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ cao cấp và văn phòng công ty, tập đoàn đa quốc gia. Hạ tầng hoàn chỉnh và tập trung nhiều hoạt động kinh tế – tài chính nên đã thu hút lượng lớn lao động. Thành phố Thủ Đức, chiếm 11,89% cơ cấu lao động, đứng thứ hai sau Quận 1. Thủ Đức là khu vực có tốc độ đô thị hóa nhanh, là trung tâm tri thức và công nghệ (Khu Công Nghệ Cao TP.HCM, Đại học Quốc gia TP.HCM). Đây là khu vực trọng điểm phát triển các ngành dịch vụ chất lượng cao, sản xuất công nghệ và khởi nghiệp sáng tạo. Các khu vực có tỷ lệ lao động thấp như Cần Giờ chỉ chiếm 0,04% (1.247 lao động); Nhà Bè (0,85%); Củ Chi (2,97%), Hóc Môn (2,03%) và Bình Chánh (2,43%) …Là các huyện ngoại thành, lao động tập trung nhiều vào các ngành công nghiệp nhẹ và nông nghiệp hơn là dịch vụ, khiến cơ cấu lao động của các khu vực này kém cạnh tranh so với các quận nội thành. Hơn nữa, (Cần Giờ, Nhà Bè) cơ sở hạ tầng giao thông chưa đồng bộ khiến DN chưa thực sự tập trung tại đây. Các khu vực khác là những quận, huyện có sự kết hợp giữa công nghiệp, dịch vụ và sản xuất với quy mô vừa. Các khu công nghiệp lớn như Tân Tạo, Tân Bình, Vĩnh Lộc , Khu chế xuất Tân Thuận… và các khu dân cư đông đúc như Tân Bình, Gò Vấp đã tạo điều kiện thu hút lao động cho nhiều ngành nghề. Tuy nhiên, điều này cũng cho thấy, TP.HCM đang có sự chênh lệch về tỷ lệ lao động giữa các khu vực trung tâm và vùng ven.

Chất lượng nguồn nhân lực: Theo báo cáo của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội TP.HCM, hiện nay thành phố có hơn 370 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, đào tạo ở các trình độ khác nhau với tổng số hơn 370.900 học viên đang theo học. Hàng năm, khoảng 125.000 học viên tốt nghiệp, góp phần bổ sung nguồn lao động kịp thời cho thị trường trong và ngoài thành phố. Thành phố hiện có 60 trường trung cấp, 62 trường cao đẳng, 45 trường đại học. Trong đó có các trường đại học đã đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục quốc tế: Trường Đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia TP.HCM), Trường Đại học Quốc tế (Đại học Quốc gia TP.HCM), Đại học Kinh tế TP.HCM, Trường Đại học Tôn Đức Thắng…Các cơ sở giáo dục này đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở TP.HCM để đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế và phát triển bền vững.

Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo năm 2010 đạt 27,0%, năm 2020 đạt 38,8%, đến năm 2023 đạt 36,0%. Cụ thể, tại khu vực thành thị, tỷ lệ này là 39,1%, trong khi tại khu vực nông thôn chỉ đạt 25,6%. Xét theo giới tính, tỷ lệ lao động nam đã qua đào tạo chiếm 37,6%, còn lao động nữ chiếm 34,1% (Cục thống kê Tp. Hồ Chí Minh, 2024, tr.79). Mặc dù TP.HCM là trung tâm kinh tế hàng đầu, tỷ lệ lao động qua đào tạo chỉ đạt 36%, thấp hơn kỳ vọng đối với một đô thị lớn (Hà Nội- 50,8%; Đà Nẵng -49,7%; Hải Phòng- 36,5%; Bình Dương- 23,3%). Khu vực nông thôn và lao động nữ có tỷ lệ đào tạo thấp hơn, cần được chú trọng cải thiện.

Biểu 5. Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo TP.Hồ Chí Minh và cả nước (2010-2023). Đơn vị: %

Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam 2015 – 2024.

Theo Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động TP.HCM, kết quả khảo sát về tình hình sử dụng lao động trong doanh nghiệp tại 8.993 doanh nghiệp năm 2023, trong đó, lao động nữ chiếm tỷ lệ 37,09%, lao động đến từ ngoại tỉnh chiếm 40,88% và lao động khuyết tật chiếm tỷ lệ rất thấp với 0,11%. Phân bố độ tuổi lao động trong các doanh nghiệp tại TP.HCM cho thấy nhóm tuổi từ 25 đến 34 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất, với 42,5%, tiếp theo là nhóm từ 35 đến 49 tuổi, chiếm 30,17%. Đây là hai nhóm tuổi giàu kinh nghiệm, đóng góp đáng kể vào hiệu suất và sự ổn định của doanh nghiệp. Lao động ở các độ tuổi này thường đang trong giai đoạn phát triển và thăng tiến sự nghiệp, đóng vai trò tích cực trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng. Ngoài ra, nhóm lao động dưới 25 tuổi chiếm 20,33%, cho thấy sự hiện diện đáng kể của lực lượng trẻ trong thị trường lao động, trong khi nhóm từ 50 tuổi trở lên chiếm 7%, duy trì một vai trò nhất định trong doanh nghiệp. Về trình độ học vấn, lao động có trình độ sau đại học chiếm 1,56%, trình độ đại học là 37,62%, cao đẳng chiếm 18,82%, và trung cấp là 13,58%. Lao động trình độ sơ cấp chiếm 8,94%, trong khi lao động phổ thông chiếm 19,48% (Đăng, 2024). Sự phân bố này phản ánh mức độ đa dạng về năng lực chuyên môn, đáp ứng nhu cầu của nhiều ngành nghề và lĩnh vực khác nhau trong các doanh nghiệp.

Năm 2015, thu nhập bình quân một tháng của người lao động trong doanh nghiệp đang hoạt động 8.121 triệu đồng, đến năm 2022 đạt 13.968 triệu đồng (tăng trưởng 71,9%), trong đó doanh nghiệp Nhà nước đạt 17.618 triệu đồng, doanh nghiệp ngoài Nhà nước 12.080 triệu đồng, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 18.420 triệu đồng,. Phân theo ngành kinh tế, ngành Thông tin và truyền thông đạt cao nhất 24.197 triệu đồng; Khai khoáng đạt 23.551 triệu đồng; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí đạt 21.561 triệu đồng; thấp nhất là Dịch vụ lưu trú và ăn uống đạt 8.498 triệu đồng; Nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản đạt 9.181 triệu đồng. Phân theo đơn vị hành chính cấp huyện, cao nhất là Quận 7 đạt 16.699 triệu đồng; Tân Bình đạt 16.057 triệu đồng; Quận 3 đạt 15.950 triệu đồng; thấp nhất là Cần Giờ đạt  9.284 triệu đồng; Hóc Môn đạt 9.460 triệu đồng (Cục thống kê TP. Hồ Chí Minh, 2024, tr.226-228).

Năng suất lao động xã hội phân theo ngành kinh tế năm 2019 đạt 285,1 triệu đồng đến năm 2023 đạt 347,4 triệu đồng (Cục thống kê TP.Hồ Chí Minh, 2024, tr.82) đây là con số khá cao, phản ánh mức độ phát triển kinh tế và hiệu quả sử dụng lao động tại khu vực, trung tâm kinh tế lớn nhất Việt Nam. Trong đó ngành Khai khoáng đạt mức cao nhất (13.186,9 triệu đồng), do tính chất đặc thù của ngành khai khoáng, sử dụng nhiều công nghệ hiện đại và giá trị sản phẩm khai thác lớn, trong khi số lao động trực tiếp không nhiều. Tuy nhiên, ngành này chiếm tỷ trọng nhỏ trong nền kinh tế TP.HCM, nên tác động đến tổng năng suất lao động không quá lớn. Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm (1.743,0 triệu đồng), Thông tin và truyền thông (935,2 triệu đồng), đây là những ngành mũi nhọn, đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng của thành phố, ngành này có năng suất cao nhờ tính chất lao động chuyên môn hóa cao, ứng dụng công nghệ và tập trung vào các dịch vụ giá trị gia tăng. Thấp nhất là Hoạt động làm thuê các công việc trong các hộ gia đình, sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia đình (40,2 triệu đồng). Nguyên nhân chủ yếu là do lao động trong ngành này thường thiếu kỹ năng, trình độ thấp, làm việc phi chính thức và giá trị gia tăng từ các hoạt động này không cao.

Năm 2023, tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi là 3,80%, trong đó nam là 3,92%; nữ là 3,66%; thành thị là 3,94%; nông thôn là 3,31%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lực lượng lao động trong độ tuổi là 1,77%; nam là 1,82%; nữ 1,71%; thành thị là 3,13%; nông thôn là 0,54% (Cục thống kê TP.Hồ Chí Minh, 2024, tr.80). Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm ở mức tương đối thấp, nhưng sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn, cũng như giữa nam và nữ, cho thấy cần có những chính sách phân bổ việc làm hợp lý hơn.

Thách thức đối với sự phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại TP.Hồ Chí Minh
Sự chênh lệch giữa cung và cầu lao động chất lượng cao. Theo báo cáo từ Sở Lao động – Thương binh và Xã hội TP.HCM, năm 2023, nhu cầu lao động có trình độ đại học trở lên trong các ngành công nghệ thông tin, tài chính – ngân hàng, kỹ thuật công nghiệp và logistics chiếm hơn 40% tổng nhu cầu tuyển dụng, nhưng nguồn cung lao động thực tế chỉ đáp ứng được khoảng 30%.

Trong quý III/2024, Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động TP.HCM (Falmi) đã khảo sát 19.405 lượt DN với tổng nhu cầu tuyển dụng 71.778 vị trí. Kết quả cho thấy, các DN chủ yếu tìm kiếm lao động đã qua đào tạo với 61.499 vị trí, chiếm 85,68% tổng nhu cầu, tăng 1,7% so với cùng kỳ năm 2023. Tuy nhiên, trong nhóm lao động đã qua đào tạo, nhu cầu có sự khác biệt đáng kể giữa lao động có trình độ nghề và trình độ đại học trở lên. Cụ thể, lao động trình độ đại học trở lên chiếm 19,72% tổng nhu cầu, tương ứng 14.155 vị trí. Trong khi đó, lao động trình độ cao đẳng được yêu cầu ở 16.602 vị trí (23,13%), trung cấp là 13.329 vị trí (18,57%) và sơ cấp cần 17.413 vị trí (24,26%). Nhóm lao động trình độ nghề chiếm tới 65,96% tổng nhu cầu nhân lực, cao gấp 3 lần so với nhóm lao động trình độ đại học trở lên. Theo trình độ chuyên môn kỹ thuật, nhu cầu nhân lực trình độ đại học chiếm 12,91% tổng nhu cầu, trong khi cao đẳng chiếm 18,27%, trung cấp 12,44%, sơ cấp nghề 18,19% và chứng chỉ nghề ngắn hạn 12,43%. Tổng nhu cầu lao động có trình độ nghề đạt 61,33%, cao gần 5 lần so với lao động trình độ đại học. Khảo sát 42.120 người tìm việc trong quý III/2024 cũng cho thấy, nhóm lao động có trình độ đại học trở lên chiếm tới 63,74%, trong khi lao động có trình độ nghề chỉ chiếm 25,78% (Tùng Nguyên, 2024). Điều này phản ánh sự chênh lệch đáng kể giữa nhu cầu của doanh nghiệp và nguồn cung lao động trên thị trường.

Mặc dù tỷ lệ lao động có trình độ đại học và cao đẳng khá cao, nhiều doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn trong việc tuyển dụng lao động có kỹ năng phù hợp, đặc biệt trong các ngành công nghiệp và dịch vụ yêu cầu kỹ thuật cao. Năm 2023, TP.HCM có tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 36,0%, nhưng tỷ lệ lao động có bằng cấp chứng chỉ chính thức chỉ là 26,1%, thấp hơn so với các đô thị phát triển trong khu vực Đông Nam Á như Singapore hay Kuala Lumpur, nơi con số này vượt 50%. Đặc biệt, lĩnh vực dịch vụ, bán lẻ và logistics vẫn phụ thuộc lớn vào lao động phổ thông, với 19,48% lao động phổ thông trong tổng số lao động doanh nghiệp. Báo cáo của VietnamWorks (2022) chỉ ra rằng có tới 56% doanh nghiệp tại TP.HCM gặp khó khăn trong việc tuyển dụng lao động có kỹ năng mềm như quản lý thời gian, giao tiếp hiệu quả, và làm việc nhóm. Hơn nữa, sự chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, nhưng chỉ 25% lao động trong các ngành sản xuất và dịch vụ tại TP.HCM được trang bị kiến thức cơ bản về ứng dụng công nghệ. Hơn nữa, mức độ đầu tư cho đào tạo và phát triển chưa tương xứng. Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu Phát triển TP.HCM, chi phí trung bình mà các doanh nghiệp dành cho đào tạo nhân lực tại TP.HCM chiếm chưa đến 3% doanh thu. Con số này thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp tại Thái Lan (5%) hoặc Malaysia (7%). Đặc biệt, DN vừa và nhỏ (chiếm 98% tổng số doanh nghiệp) thường gặp khó khăn trong việc đầu tư vào các chương trình nâng cao kỹ năng hoặc liên kết với các cơ sở đào tạo.

Cạnh tranh nhân lực với các thành phố khác và khu vực quốc tế. TP.HCM là trung tâm kinh tế hàng đầu của Việt Nam, nhưng phải đối mặt với áp lực cạnh tranh nhân lực với Hà Nội và các khu vực kinh tế lân cận như Bình Dương, Đồng Nai, nơi có chính sách thu hút nhân tài và môi trường làm việc tốt hơn. Theo thống kê của Cục Thống kê TP.HCM, năm 2022, hơn 12.000 lao động chất lượng cao đã chuyển dịch từ TP.HCM sang các tỉnh lân cận, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất công nghệ cao. Với sự dịch chuyển sang các ngành công nghệ cao, dịch vụ tài chính và logistics, nhiều lao động trong các ngành truyền thống như sản xuất dệt may, nông nghiệp, hoặc ngành nghề thủ công phải đối mặt với nguy cơ mất việc do thiếu kỹ năng chuyển đổi. Chẳng hạn, số lao động trong ngành dệt may tại TP.HCM giảm từ 187.000 người (năm 2015) xuống 115.000 người (năm 2022), trong khi các ngành như công nghệ thông tin và logistics lại tăng mạnh nhưng không tuyển đủ nhân sự chất lượng.

Năm 2023, tỷ lệ thất nghiệp (3,80%) cao hơn mức bình quân của cả nước (2,28%) và khu vực (2,91%), cao hơn hẳn so với các tỉnh trong khu vực (Bình Dương 1,42%; Đồng Nai 2,66%); Điều này phản ánh sự bất cân đối giữa nhu cầu của DN và kỹ năng thực tế của lực lượng lao động mới gia nhập thị trường.

Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại TP.Hồ Chí Minh
Để thu hút và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại TP. HCM, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chúng tôi đề xuất một số giải pháp sau:

Thứ nhất, cần có các chính sách hiệu quả nhằm trọng dụng và phát huy nguồn nhân lực tài năng. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu và trong nước có nhiều biến động, mỗi quốc gia cần phải thích ứng linh hoạt. Để thực hiện điều này, TP.HCM cần đổi mới mạnh mẽ các cơ chế và chính sách, tập trung vào việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Việc ban hành những chính sách đột phá, vượt trội trong thu hút, trọng dụng và sử dụng nhân tài là cần thiết, đồng thời khai thác tối đa năng lực, trí tuệ và sự cống hiến của đội ngũ người tài đức. Ngoài ra, cần nghiên cứu và thiết lập các tiêu chí, chính sách và giải pháp cụ thể nhằm thu hút nhân tài. Điều này đòi hỏi phải sửa đổi căn bản các quy định liên quan đến thu nhập, chế độ đãi ngộ, tiền lương và phúc lợi, đảm bảo sự hợp lý và tương xứng với trình độ, năng lực và yêu cầu công việc. Các chính sách ưu đãi cần được quy định rõ ràng, đặc biệt với chức danh lãnh đạo trong các tổ chức khoa học và công nghệ công lập. Đồng thời, xây dựng một môi trường làm việc thuận lợi, sáng tạo và hiệu quả là điều kiện quan trọng để phát huy tối đa tài năng, trí tuệ và tâm huyết của nguồn nhân lực chất lượng cao, đóng góp cho sự phát triển bền vững của TP.HCM.

Thứ hai, đặt trọng tâm vào giáo dục và đào tạo, cần thúc đẩy cải cách toàn diện, đồng bộ để đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Mục tiêu chính của quá trình này là xây dựng đội ngũ lao động không chỉ có trình độ chuyên môn, nhiệt huyết, sáng tạo, có tinh thần tự hào dân tộc và khát vọng vươn lên, góp phần tích cực vào sự tiến bộ của cá nhân và sự phát triển chung của đất nước. Nhiệm vụ cấp bách hiện nay là thực hiện đổi mới cơ bản và toàn diện trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo, tập trung cải tổ sâu sắc từ mục tiêu, nội dung, phương pháp giảng dạy đến hệ thống giáo dục và cách thức quản lý. Giáo dục cần chuyển đổi trọng tâm từ việc truyền đạt kiến thức sang rèn luyện kỹ năng tư duy, khả năng giải quyết vấn đề, sáng tạo, tự học và thích nghi với sự thay đổi. Nền giáo dục lý tưởng phải là một nền tảng lành mạnh, hiện đại, dân chủ và khoa học, kết hợp nhuần nhuyễn giữa dạy kiến thức và giáo dục nhân cách, giữa lý thuyết và thực hành.

Thứ ba, để giải quyết mâu thuẫn giữa cung và cầu nguồn nhân lực hiện nay, TP.HCM cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ sở đào tạo, doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước. Mô hình liên kết này, thường được gọi là “phối hợp ba nhà” (nhà trường – nhà doanh nghiệp – nhà nước), nhằm thúc đẩy chiến lược và chính sách phát triển, đào tạo nhân lực phù hợp với nhu cầu thực tế của thị trường lao động. Các cơ sở đào tạo cần xây dựng các chương trình giảng dạy linh hoạt, phù hợp với từng nhóm đối tượng cụ thể như DN vừa và nhỏ, hộ nông dân, hoặc các cá nhân, hộ kinh doanh cá thể đang chuyển đổi sang kinh tế số. Việc hợp tác chặt chẽ giữa các đơn vị đào tạo và doanh nghiệp sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc tối ưu hóa NNL, đáp ứng kịp thời nhu cầu lao động đa dạng của xã hội.

Thứ tư, TP.HCM có lợi thế lớn trong việc phát triển các ngành kinh tế hiện đại với tiềm năng tăng trưởng nhanh nhờ ứng dụng công nghệ tiên tiến từ các quốc gia hàng đầu. Để tận dụng lợi thế này, cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài và thúc đẩy nghiên cứu cùng đào tạo nguồn nhân lực. Điều này sẽ tạo điều kiện phát triển đội ngũ nhân lực chất lượng cao, đạt trình độ ngang tầm khu vực, đồng thời hỗ trợ tăng trưởng các ngành sử dụng công nghệ cao. Việc đầu tư hiệu quả vào các chương trình kinh tế – xã hội sẽ giúp đa dạng hóa các mô hình việc làm, đặc biệt là việc làm tại chỗ, dựa trên chuyển dịch cơ cấu kinh tế để đảm bảo sự phát triển bền vững và giữ vững ổn định xã hội. Song song đó, cần chú trọng phát triển các lĩnh vực khoa học công nghệ tiên tiến để thu hút nguồn lao động chất lượng cao, nâng cao thu nhập và khuyến khích người lao động không ngừng trau dồi kỹ năng. Đặc biệt, việc liên kết vùng trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố quan trọng để hỗ trợ sự phát triển chung của TP.HCM và các khu vực lân cận.

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố then chốt giúp TP.HCM duy trì và nâng cao vị thế cạnh tranh trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Mặc dù TP.HCM đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong việc đào tạo và phát triển NNL, nhưng vẫn còn nhiều thách thức cần phải giải quyết, đặc biệt là vấn đề về sự đồng bộ giữa nhu cầu thị trường lao động và chất lượng giáo dục đào tạo, cũng như sự thiếu hụt nhân lực ở một số ngành mũi nhọn. Để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao một cách bền vững, TP.HCM cần tiếp tục đẩy mạnh các chính sách giáo dục và đào tạo, cải thiện chất lượng đội ngũ giảng viên và cơ sở vật chất, đồng thời xây dựng môi trường làm việc hấp dẫn, khuyến khích sáng tạo và đổi mới. Các doanh nghiệp, cơ sở giáo dục và các cơ quan chức năng cần hợp tác chặt chẽ hơn nữa để tạo ra hệ thống đào tạo gắn liền với nhu cầu thực tế của thị trường lao động. Ngoài ra, việc thu hút và giữ chân nhân tài cũng cần được chú trọng, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ cao, tài chính, y tế và dịch vụ chất lượng cao. TP.HCM cần có những chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho các chuyên gia và lao động có trình độ cao, tạo ra những cơ hội phát triển nghề nghiệp và môi trường sống hấp dẫn. Tóm lại, để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế bền vững, TP.HCM cần tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng NNL, từ đó không chỉ thúc đẩy sự phát triển kinh tế, mà còn xây dựng một xã hội trí thức, sáng tạo và hội nhập toàn cầu.

ThS.Nguyễn Thị Hương/Trường ĐH Lao Động – Xã Hội, CSII

Tài liệu tham khảo
Bộ Chính trị. (2022). Nghị quyết của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Hà Nội.
Cành, N.T. (2021). Phát triển nguồn nhân lực Thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tạp chí khoa học xã hội số 8 (276).
Cục thống kê Tp. Hồ Chí Minh. (2024). Niên giám thống kê 2023. Nxb. Thống kê.
Chi, L.T.K. (2021). Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở thành phố Hồ Chí Minh. https://tapchicongthuong.vn/phat-trien-nguon-nhan-luc-chat-luong-cao-trong-boi-canh-hoi-nhap-quoc-te-o-thanh-pho-ho-chi-minh-81119.htm.
Đăng, T. (2024). Phần lớn doanh nghiệp tại TP.Hồ Chí Minh có xu hướng sử dụng lao động đã qua đào tạo, https://tapchilaodongxahoi.vn/phan-lon-doanh-nghiep-tai-tphcm-co-xu-huong-su-dung-lao-dong-da-qua-dao-tao-1331420.html.
Hoa, N.T.H. (2023). Đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở thành phố Hồ Chí Minh. https://lyluanchinhtri.vn/dao-tao-nang-cao-chat-luong-nguon-nhan-luc-o-thanh-pho-ho-chi-minh-2213.html.
Hồng, V.T.T & Trung, N.V. (2023). Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển đô thị thông minh bền vững tại TP. Hồ Chí Minh. https://kinhtevadubao.vn/dao-tao-nguon-nhan-luc-dap-ung-yeu-cau-phat-trien-do-thi-thong-minh-ben-vung-tai-tp-ho-chi-minh-28602.html.
Lệ, N.T.M. (2023). Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại Tp.HCM. https://taichinhdoanhnghiep.net.vn/phat-trien-nguon-nhan-luc-chat-luong-cao-tai-tphcm-d43297.html.
Linh, H.T & Thiện, N.T. (2024). Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh trở thành trung tâm kinh tế, tài chính của châu Á. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/thuc-tien-kinh-nghiem1/-/2018/908702/nang-cao-chat-luong-nguon-nhan-luc%2C-dap-ung-yeu-cau-phat-trien-thanh-pho-ho-chi-minh-tro-thanh-trung-tam-kinh-te%2C-tai-chinh-cua-chau-a.aspx#.
Nguyên, T. (2024). Nhu cầu lao động nghề cao gấp 3 lần trình độ đại học, https://dantri.com.vn/lao-dong-viec-lam/nhu-cau-lao-dong-nghe-cao-gap-3-lan-trinh-do-dai-hoc-20241002151744639.htm.
Phong, N.T & Sáng, N.V. (2024). Phát triển nguồn nhân lực hội nhập quốc tế ở TP. Hồ Chí Minh. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/12/05/phat-trien-nguon-nhan-luc-hoi-nhap-quoc-te-o-tp-ho-chi-minh/.
Tổng cục thống kê. (2015). Niên giám thống kê 2015. Nxb. Thống kê.
Tổng cục thống kê. (2024). Niên giám thống kê 2023. Nxb. Thống kê.
Tú, H.V. (2024). Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao TP. Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững. https://kinhtevadubao.vn/phat-trien-nguon-nhan-luc-chat-luong-cao-tp-ho-chi-minh-dap-ung-yeu-cau-phat-trien-nhanh-va-ben-vung-29553.html.
https://www.vietnamworks.com/hrinsider/vietnamworks-cong-bo-bao-cao-ve-tinh-hinh-thi-truong-lao-dong-nam-2022-thuc-trang-va-huong-di.html.
https://www.hcmcpv.org.vn/van-ban-van-kien/van-kien-dai-hoi-dai-bieu-dang-bo-tphcm-lan-thu-xi-1482982461.