Cách đây tròn 80 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã giành thắng lợi vĩ đại trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Cuộc cách mạng lịch sử này không chỉ mang lại độc lập, tự do cho dân tộc, khẳng định sức mạnh đoàn kết toàn dân, mà còn để lại nhiều bài học vô giá về việc phát huy vai trò và sức mạnh của quần chúng nhân dân trong giành và giữ chính quyền cách mạng, đặc biệt là xây dựng một chính quyền dân chủ thực sự “của dân, do dân và vì dân”.

Cuộc cách mạng của dân, do dân
Ngày 9/3/1945, Nhật tiến hành đảo chính Pháp ở Đông Dương. Sau khi phân tích, đánh giá tình hình, ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Trung ương nhận định, cuộc đảo chính đã đẩy Đông Dương vào “tình hình chính trị khủng hoảng sâu sắc”, song “điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương hiện nay chưa thực chín muồi”.1
Từ đó, Đảng chủ trương thay đổi khẩu hiệu và toàn bộ chiến thuật: đưa khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật!” thay cho “Đánh đuổi Nhật, Pháp!”, tập trung chống lại chính quyền Nhật và chính phủ bù nhìn tay sai. Đồng thời, điều chỉnh các hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh phù hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa; động viên quần chúng nhanh chóng bước vào mặt trận cách mạng, tập dượt tiến lên tổng khởi nghĩa.
Đảng kêu gọi phát động cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, với các hình thức từ bất hợp tác, bãi công, bãi thị, phá hoại đến biểu tình thị uy vũ trang, chiến tranh du kích. Khi thời cơ chín muồi, sẵn sàng chuyển sang tổng khởi nghĩa, đặc biệt trong bối cảnh quân Đồng minh có thể bám chắc và tiến mạnh vào đất nước.2
Ngày 14/8/1945, Nhật hoàng chính thức tuyên bố đầu hàng quân Đồng minh, mở ra thời cơ cách mạng hiếm hoi và ngắn ngủi. Nắm bắt khoảnh khắc quyết định ấy, Ban Thường vụ Đảng Cộng sản Đông Dương cùng lãnh tụ Hồ Chí Minh đã họp khẩn, quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trên toàn quốc và triệu tập ngay Hội nghị toàn quốc của Đảng để bàn kế hoạch lãnh đạo cụ thể. Hồ Chí Minh chỉ thị dứt khoát: “Nên họp ngay và cũng không nên kéo dài hội nghị. Chúng ta cần tranh thủ từng giây, từng phút. Tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội”.3
Trên tinh thần đó, chiều 14/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc tại Tân Trào (xã Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang). Hội nghị nhận định: “Những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương như đã chín muồi”; “Nhật đổ, hàng ngũ chỉ huy của chúng ở Đông Dương chia rẽ đến cực điểm; quân lính Nhật tan rã, mất tinh thần; bọn Việt gian thân Nhật hoảng sợ”; “Toàn dân tộc đang sôi nổi đợi giờ khởi nghĩa, giành quyền độc lập”.4
Kết thúc Hội nghị toàn quốc của Đảng, ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân được tổ chức tại Tân Trào, thể hiện khí thế đoàn kết và quyết tâm sắt đá của toàn dân tộc trong giờ phút lịch sử giành độc lập.
Sau Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc dân, Đảng Cộng sản Đông Dương ra Lời hiệu triệu gửi tới toàn thể nhân dân, các đoàn thể cách mạng và đảng viên cộng sản: “Giờ khởi nghĩa đã đến, ngày vinh quang của Tổ quốc đã bùng nổ. Quyết chiến, quyết chiến, quyết chiến! Thắng lợi nhất định về ta”.5
Cùng thời điểm, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ”.6
Đáp lại lời kêu gọi thiêng liêng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, với khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng và quyết tâm sắt đá, hơn 20 triệu đồng bào từ Bắc tới Nam đã vùng lên tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa oanh liệt trên toàn quốc.
Tại Hà Nội, chiều 17/8/1945, hàng vạn quần chúng từ nội, ngoại thành đổ về Nhà hát Lớn tham gia mít tinh lớn, rồi tuần hành qua các phố trung tâm, hô vang khẩu hiệu “Ủng hộ Việt Minh!”, “Việt Nam độc lập!”. Ngày 18/8/1945, cờ đỏ sao vàng tung bay trên nhiều tuyến phố chính.
Đỉnh cao là ngày 19/8/1945: đúng 11 giờ, trước hơn 20 vạn người tập trung tại Nhà hát Lớn, Ủy ban khởi nghĩa đọc lời kêu gọi toàn dân đứng lên. Ngay sau đó, các đoàn quần chúng cách mạng, có lực lượng vũ trang và tự vệ dẫn đầu, chia thành hai hướng tiến chiếm các cơ quan trọng yếu như Phủ Khâm sai, Sở Bưu điện, Sở Cảnh sát… Trước sức mạnh áp đảo của nhân dân, hầu hết công sở chính quyền địch nhanh chóng về tay cách mạng.7
Sau thắng lợi ở Hà Nội, ngọn lửa cách mạng nhanh chóng lan rộng ra khắp cả nước. Ngày 18 và 19/8/1945, nhân dân nhiều tỉnh ở đồng bằng Bắc Bộ như Bắc Giang, Hải Dương, Hải Phòng, Nam Định… đồng loạt nổi dậy giành chính quyền, buộc bộ máy cai trị của Nhật và tay sai tan rã.
Ở Huế, ngày 20/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh được thành lập. Từ ngày 21/8/1945, hàng loạt cuộc biểu tình thị uy của nhân dân diễn ra, tạo khí thế áp đảo kẻ thù. Sáng ngày 23/8/1945, “cả thành phố Huế rực rỡ cờ đỏ sao vàng, 15 vạn nhân dân Huế cùng nhân dân các phủ, huyện theo kế hoạch tiến vào thành phố đã tràn ngập các khu phố, chật ních trên các ngả đường kéo về trung tâm. Lực lượng vũ trang và tự vệ chiến đấu làm nòng cốt, chia thành nhiều mũi tiến chiếm các cơ quan trọng yếu như Phủ Khâm sai Trung Kỳ, Tòa Thị chính, Sở Mật thám… Bộ máy chính quyền tay sai nhanh chóng tê liệt, quyền lực chuyển về tay cách mạng.
Chiều cùng ngày, trước áp lực và khí thế áp đảo của quần chúng, Bảo Đại tuyên bố thoái vị, chấm dứt chế độ quân chủ chuyên chế đã tồn tại hàng trăm năm. Lễ thoái vị tại Ngọ Môn ngày 30/8/1945 trở thành sự kiện lịch sử trọng đại, đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của vương triều Nguyễn và mở ra thời kỳ mới, thời kỳ toàn dân làm chủ đất nước dưới chính quyền cách mạng.8
Ở Sài Gòn, đúng như kế hoạch, 18 giờ ngày 24/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa phát lệnh tổng khởi nghĩa. Chấp hành mệnh lệnh, từ 20 giờ, các đội Thanh niên Tiền phong xung kích gồm hàng nghìn đội viên ưu tú, đa số là đoàn viên Tổng Công đoàn, nòng cốt là các đảng viên cộng sản được vũ trang, triển khai đánh chiếm các cơ sở trọng yếu của thành phố như Kho bạc, Nhà máy đèn, Nhà máy nước, Sở Bưu điện, dinh Thống đốc Nam Kỳ, Sở Chữa cháy, Sở Công an, các đầu cầu vào Sài Gòn, bốt cảnh sát, khu Pháp kiều, khu vực trại lính Nhật và Pháp.
Trong khi lực lượng xung kích giành các công sở, thanh niên và công nhân có vũ trang di chuyển trên các xe cam nhông cắm cờ chạy khắp phố, vừa cổ động quần chúng, vừa ngăn chặn hành động phá hoại của bọn phản động. Đến 22 giờ cùng ngày, toàn bộ bộ máy cai trị của chính quyền bù nhìn ở Sài Gòn đã về tay cách mạng. Tại dinh Khâm sai, Nguyễn Văn Sâm vừa nhậm chức và Quyền Khâm sai Hồ Văn Ngà đều bị bắt giữ.
Rạng sáng 25/8/1945, Sài Gòn bừng dậy trong khí thế cách mạng hào hùng. Cờ đỏ sao vàng và biểu ngữ cách mạng rợp khắp phố phường, tiếng hô khẩu hiệu quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự do vang vọng khắp thành phố.
Thắng lợi tại ba đô thị lớn Hà Nội, Huế, Sài Gòn đã tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ, thổi bùng ngọn lửa cách mạng trên khắp mọi miền đất nước. Từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược, từ đất liền đến hải đảo, phong trào khởi nghĩa của nhân dân nổi lên như vũ bão, cuốn phăng mọi tàn dư của bộ máy cai trị thực dân, phát xít và tay sai.
Ngày 26/8/1945, nhân dân Châu Đốc và Biên Hòa đồng loạt vùng dậy giành chính quyền thắng lợi. Tiếp đó, ngày 27/8/1945, nhân dân Rạch Giá giành chính quyền thành công ở tỉnh lỵ. Ngày 28/8/1945, khởi nghĩa nổ ra và thành công tại Hà Tiên và Đồng Nai Thượng, hoàn tất việc thiết lập chính quyền cách mạng ở nhiều địa phương Nam Bộ.9
Như vậy, chỉ trong khoảng nửa tháng, từ giữa đến cuối tháng 8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn. Nhân dân cả nước vùng lên lật đổ ách thống trị của đế quốc và tay sai, giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Điểm nổi bật của Cách mạng Tháng Tám là đã huy động được lực lượng quần chúng đông đảo, tự giác và tích cực tham gia, sẵn sàng xả thân vì độc lập, tự do. Trước đó, Đảng không chỉ vận động, giác ngộ quần chúng lao động nghèo khổ mà còn tranh thủ, cảm hóa những người thuộc tầng lớp trên và cả một bộ phận trong hàng ngũ địch, biến lực lượng của địch thành lực lượng cách mạng.
Chính vì vậy, Cách mạng Tháng Tám là một cuộc cách mạng của dân, do dân tiến hành, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, minh chứng cho sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc khi được dẫn dắt bởi đường lối cách mạng đúng đắn.
Cuộc cách mạng vì dân
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền cách mạng đã về tay nhân dân. Tuy nhiên, bên trong đất nước, các thế lực phản động vẫn câu kết chống phá; bên ngoài, các thế lực đế quốc, đặc biệt là Pháp và Tưởng, chưa từ bỏ âm mưu can thiệp, xâm lược. Nhận rõ những nguy cơ ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: dù nhân dân ta đã nắm chính quyền, nhưng cuộc đấu tranh giai cấp trong nước và âm mưu xâm lược của đế quốc vẫn còn.
Ngày 3/9/1945, tại phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ lâm thời, Người trình bày “những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” gồm 6 vấn đề trọng yếu:
(I)Phát động phong trào tăng gia sản xuất chống nạn đói, mở ngay cuộc lạc quyên gạo giúp đỡ người nghèo. (II)Mở chiến dịch chống nạn mù chữ. (III)Tổ chức càng sớm càng tốt cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, soạn thảo Hiến pháp dân chủ. (IV)Phát động phong trào giáo dục cần, kiệm, liêm, chính để bài trừ thói hư tật xấu do chế độ thực dân để lại. (V)Bãi bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò; tuyệt đối cấm hút thuốc phiện. (VI)Tuyên bố bảo đảm tự do tín ngưỡng và đoàn kết lương – giáo.10
Sáu nhiệm vụ trên không chỉ là giải pháp ứng phó trước mắt, mà còn là định hướng chiến lược nhằm vì dân, vì nước. Ngay sau khi giành độc lập, trong muôn vàn khó khăn thử thách, nhiệm vụ cấp bách nhất là giải phóng nhân dân khỏi ba kẻ thù lớn: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm, đặt nền móng cho một xã hội mới.
Trước hết, phải diệt giặc đói, nhiệm vụ sống còn nhằm bảo đảm đời sống bình thường của nhân dân và ổn định xã hội. Khi người dân được no ấm, họ mới có sức khỏe, tinh thần và niềm tin để tham gia kiến thiết đất nước. Đây là tiền đề vật chất cơ bản cho mọi bước phát triển. Với cương vị là người đứng đầu Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Hơn hai triệu đồng bào chúng ta đã chết đói. Những người thoát chết đói nay cũng bị đói. Chúng ta phải làm thế nào cho họ sống”. Người đề nghị: “Phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất… mở một cuộc lạc quyên. Mười ngày một lần, tất cả đồng bào chúng ta nhịn ăn một bữa. Gạo tiết kiệm được sẽ góp lại và phát cho người nghèo”.
Song song với diệt giặc đói là diệt giặc dốt, bởi lúc này hơn 90% dân số mù chữ, một trở ngại lớn cho việc xây dựng xã hội tiến bộ. Hồ Chí Minh khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Xóa nạn mù chữ không chỉ nhằm nâng cao dân trí, mà còn bồi dưỡng ý thức chính trị, khả năng tiếp thu khoa học – kỹ thuật và năng lực làm chủ đất nước của mỗi người dân, phục vụ trực tiếp mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, nơi tri thức và giác ngộ của quần chúng giữ vai trò quyết định.
Bên cạnh đó, diệt giặc ngoại xâm là nhiệm vụ cấp bách và lâu dài để bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ. Chỉ khi đẩy lùi nguy cơ xâm lược, giữ vững hòa bình và ổn định, đất nước mới có điều kiện tập trung vào xây dựng và phát triển, đem lại lợi ích thiết thực cho nhân dân.11
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ đã phát động các phong trào “ngày đồng tâm”, “hũ gạo cứu đói” để quyên góp giúp đỡ đồng bào nghèo. Song song với công tác lạc quyên, chính quyền cách mạng triển khai phong trào “tăng gia sản xuất” với khẩu hiệu “tấc đất tấc vàng”, huy động mọi lực lượng cải tạo đất công cộng còn bỏ trống như sân bãi, vỉa hè, bờ đê… để trồng trọt, đặc biệt là các loại hoa màu ngắn ngày.
Nhờ những nỗ lực đó, mặc dù năm 1945 xảy ra lụt lớn, diện tích lúa mùa ở Bắc Bộ vẫn đạt 890.000 ha, sản lượng 1.155.000 tấn (so với 832.000 tấn năm 1944 và 952.730 tấn năm 1943). Năm 1946, diện tích ngô đạt 212.850 ha, sản lượng 217.020 tấn (năm 1939 chỉ đạt 119.000 ha, sản lượng 140.000 tấn). Diện tích khoai đạt 90.000 ha, sản lượng 330.000 tấn (năm 1939 mới đạt 68.000 ha, sản lượng 156.000 tấn). Những kết quả trên đã từng bước đẩy lùi nạn đói, góp phần ổn định đời sống nhân dân và củng cố niềm tin vào chính quyền cách mạng non trẻ.12
Ngày 8/9/1945, Nha Bình dân học vụ được thành lập trực thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục. Cùng ngày, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 19-SL, quy định trong vòng 6 tháng, mỗi làng hoặc thị trấn phải mở ít nhất một lớp học bình dân; và Sắc lệnh số 20-SL, bắt buộc toàn dân học chữ quốc ngữ.
Ngay sau khi ra đời, Nha Bình dân học vụ khẩn trương tổ chức các lớp huấn luyện tại Hà Nội và nhiều địa phương để thống nhất phương pháp, nội dung giảng dạy, tạo lực lượng nòng cốt cho phong trào. Nhờ đó, chỉ sau một năm, đã có thêm khoảng 2,5 triệu người biết đọc, biết viết.
Cùng với phong trào xóa nạn mù chữ, hệ thống giáo dục phổ thông và đại học được xây dựng và từng bước phát triển. Tiếng Việt trở thành ngôn ngữ chính thức trong các văn bản của Nhà nước và được sử dụng trong giảng dạy, học tập ở các trường học, khẳng định chủ quyền văn hóa và góp phần nâng cao dân trí cho toàn dân.13
Bằng những chính sách ngoại giao khéo léo, chính quyền cách mạng đã buộc 20 vạn quân Tưởng rút về nước, đồng thời lãnh đạo nhân dân đánh bại thực dân Pháp (1954) và đế quốc Mỹ (1975), giành độc lập, thống nhất trọn vẹn cho dân tộc.
Trải qua 80 năm kể từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhiều mục tiêu vì nhân dân – cụ thể là quyền con người – đã được Việt Nam thực hiện hiệu quả. Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước suốt 40 năm qua, Đảng và Nhà nước luôn đặt con người (nhân dân) ở vị trí trung tâm, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển.
Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách chuyên biệt về quyền con người, tiêu biểu như: Chỉ thị số 12/CT/TW ngày 12/7/1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về vấn đề quyền con người và quan điểm của Đảng; Chỉ thị số 41/2004/CT-TTg ngày 02/02/2004 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác bảo vệ, đấu tranh về nhân quyền trong tình hình mới; Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư về công tác nhân quyền trong tình hình mới.
Quan điểm và cách tiếp cận quyền con người đã thấm sâu vào các văn kiện, nghị quyết của Đại hội XIII cũng như các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, bảo đảm tính thống nhất và hệ thống trong triển khai thực hiện. Đảng ta nhấn mạnh: “Lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước; Nhà nước tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”.14
Trên phương diện phát triển kinh tế gắn với bảo đảm an sinh xã hội, đến hết năm 2024, tỷ lệ nghèo theo chuẩn mới ở Việt Nam chỉ còn khoảng 1%, giảm mạnh từ mức 58% năm 1993 xuống 1,93% năm 2024. Chỉ số phát triển con người (HDI) năm 2024 tăng 8 bậc so với kỳ trước, từ vị trí 115 lên 107/193 quốc gia. Chỉ số hạnh phúc tăng 11 bậc, xếp thứ 54/143 quốc gia. Chỉ số bình đẳng giới cũng cải thiện rõ rệt, từ vị trí 87 năm 2021 lên 72/146 quốc gia năm 2023. Đặc biệt, chỉ số phát triển bền vững (SDGs) của Việt Nam năm 2024 tăng thêm 1 bậc so với năm 2023, đứng ở vị trí 54/166 quốc gia.15
Những kết quả này phản ánh nỗ lực kiên trì của Đảng và Nhà nước trong việc kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, coi con người vừa là trung tâm vừa là mục tiêu của sự phát triển bền vững.15
Bảo đảm bằng pháp luật là điều kiện quan trọng hàng đầu để quyền con người được thực hiện trên thực tế. Các tiêu chuẩn và nguyên tắc về quyền con người đã được cụ thể hóa trong Hiến pháp và pháp luật, qua đó, khi được ghi nhận, quyền con người trở thành ý chí chung của toàn dân, buộc xã hội tuân thủ và Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ.
Thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia, kế thừa quan điểm nhất quán của các kỳ Đại hội trước, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp năm 2013; đồng thời gắn quyền công dân với nghĩa vụ, trách nhiệm đối với xã hội.
Kể từ khi Hiến pháp năm 2013 được thông qua đến nay, công tác cải cách pháp luật và hoàn thiện thể chế, chính sách đã được đẩy mạnh, với hơn 100 luật, bộ luật liên quan trực tiếp đến quyền con người được ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung. Theo ước tính của các chuyên gia pháp lý, hệ thống pháp luật Việt Nam hiện có khoảng 13.000 văn bản quy phạm pháp luật, tạo nền tảng pháp lý ngày càng đầy đủ hơn để bảo đảm quyền con người trên mọi lĩnh vực.

Ngoài ra, các quyền chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa của người dân, cũng như quyền của các nhóm yếu thế như người cao tuổi, phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, đồng bào dân tộc thiểu số, người có tín ngưỡng, tôn giáo… ngày càng được bảo đảm tốt hơn. Mọi công dân đều được khuyến khích tham gia “học tập suốt đời” trong một nền giáo dục quốc dân không ngừng phát triển, hướng tới xây dựng xã hội học tập; trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng và tạo điều kiện phát triển toàn diện. Công tác chăm lo người cao tuổi, đền ơn đáp nghĩa thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng được chú trọng. Các đối tượng yếu thế, người có hoàn cảnh khó khăn, nạn nhân thiên tai, bão lũ được hỗ trợ kịp thời; người nghèo được tạo điều kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản và vươn lên thoát nghèo bền vững, bảo đảm công bằng và an sinh xã hội trên tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau”.
Theo xếp hạng của Liên hợp quốc, năm 2024, chỉ số hạnh phúc của Việt Nam tăng 11 bậc, đứng thứ 54/143 quốc gia; chỉ số phát triển bền vững (SDGs) cũng tăng 1 bậc so với năm 2023, xếp thứ 54/166 quốc gia. Những kết quả này khẳng định tính nhất quán, rõ ràng và ngày càng hoàn thiện trong chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước; đồng thời phản ánh hiệu quả của các biện pháp triển khai trên thực tế, qua đó được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi của trí tuệ, bản lĩnh và khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Đông Dương và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc triệt để, lật đổ ách thống trị của thực dân, phong kiến, đưa nhân dân từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, mở ra con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, con đường phát triển tất yếu của lịch sử cách mạng Việt Nam. Thắng lợi ấy khẳng định chân lý: nhân dân là nguồn sức mạnh vô tận, là chủ thể quyết định mọi thắng lợi của cách mạng; khẳng định giá trị bền vững của một cuộc cách mạng “của dân, do dân và vì dân”. Trải qua mọi biến động của thời cuộc, tinh thần Cách mạng Tháng Tám vẫn soi sáng con đường dựng nước và giữ nước, tiếp thêm ý chí và niềm tin để nhân dân Việt Nam xây dựng một đất nước hùng cường, thịnh vượng, sánh vai cùng bạn bè năm châu.
TS.Nguyễn Tôn Phương Du, TS. Bùi Nghĩa, ThS. Hồ Thức Tài/Học viện Chính trị khu vực II
Tài liệu tham khảo:
1, 2, 4, 5.Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng, Toàn tập, t. 7, Nxb Chính trị quốc gia, H, tr. 365, 367, 424, 416.
3.Nguyễn Lương Bằng, “Những lần gặp Bác”, trong: Bác Hồ, Hồi ký (in lần thứ hai), Nxb Văn học, H, 1975, tr. 56.
6.Hồ Chí Minh Toàn tập, t. 3, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, tr. 595.
7, 8.Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập I (1930 – 1954), quyển 1 (1930 – 1945), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2018, tr. 702-703, 708.
9.Hội đồng Chỉ đạo biên soạn Lịch sử Nam Bộ kháng chiến, Lịch sử Nam Bộ kháng chiến, tập I (1945 – 1954), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2010, tr. 153.
10, 11.Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, phông Phủ Thủ tướng, hồ sơ 49, Biên bản họp Hội đồng Chính phủ ngày 3/9/1945.
12, 13.Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập I (1930 – 1954), quyển 2 (1945 – 1954), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2018, tr. 40, 43.
14.Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2022, tr. 39.
15.Báo Chính phủ ngày 11/12/2024.