Thứ Năm, Tháng 8 21, 2025
* Email: bbt.dongnama@gmail.com *Tòa soạn: 0989011688 - 0768908888
spot_img

Đại đoàn kết dân tộc, điểm tựa cho phát triển kinh tế – xã hội vùng Đông Nam Bộ



ĐNA -

Trải qua chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt, hun đúc nên sức mạnh trường tồn của dân tộc Việt Nam. Từ những buổi đầu dựng nước, qua các cuộc kháng chiến vệ quốc hào hùng, cho đến hành trình đổi mới và hội nhập quốc tế hôm nay, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân không chỉ là giá trị nền tảng mà còn là nhân tố quyết định, tạo nên mọi thắng lợi, khẳng định vị thế và bản lĩnh Việt Nam trên trường quốc tế.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.

Đại đoàn kết toàn dân tộc – cội nguồn sức mạnh Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là một tư tưởng đạo lý, mà còn là đường lối chiến lược của Đảng, là nguồn lực nội sinh to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Không phải ngẫu nhiên mà trong bản Di chúc thiêng liêng, Người căn dặn phải giữ gìn sự đoàn kết “như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Đoàn kết không chỉ là sự đồng thuận tức thời trước khó khăn, mà còn là nền tảng bền vững để hình thành đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin chính trị, gắn kết cộng đồng và bảo đảm ổn định phát triển. Đó chính là điểm tựa để nối kết các tầng lớp nhân dân, giữa Nhà nước và Nhân dân, giữa các thế hệ, vùng miền, dân tộc, tôn giáo… nhằm tạo nên một khối thống nhất trong đa dạng, đặc trưng nổi bật của bản sắc Việt Nam.

Trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới với yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cải cách thể chế và hội nhập quốc tế sâu rộng, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc càng cần được phát huy mạnh mẽ. Thực tiễn cho thấy, vùng Đông Nam Bộ – khu vực đầu tàu kinh tế của cả nước, đóng góp trên 32% GDP, hơn 44% thu ngân sách và 41% vốn FDI – đang phải đối mặt với nhiều thách thức phức tạp. Đó là những bất cập trong cơ chế liên kết vùng, khoảng trống về thể chế trung gian, tiến trình chuyển đổi số chưa hỗ trợ hiệu quả cho sự kết nối xã hội; không gian đối thoại bị thu hẹp; bản sắc cộng đồng có dấu hiệu suy giảm; và nguồn lực kiều bào chưa được khai thác đúng tầm.

Những hạn chế trên đang tác động trực tiếp, làm suy giảm sự gắn kết xã hội, đồng thuận chính trị và khả năng phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc tại vùng Đông Nam Bộ. Thực trạng đó đặt ra yêu cầu cấp bách phải triển khai các giải pháp đồng bộ, có cơ sở khoa học, nhằm củng cố và phát huy hiệu quả sức mạnh đại đoàn kết, bảo đảm mục tiêu phát triển nhanh, bền vững và bao trùm theo tinh thần Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 07/10/2022 của Bộ Chính trị. Do vậy, việc nhận diện rõ những rào cản hiện hữu, đồng thời đề xuất các giải pháp khả thi để khơi dậy truyền thống đoàn kết, khai thác sức mạnh cộng đồng trong phát triển kinh tế – xã hội của vùng là điều kiện tiên quyết để xây dựng Đông Nam Bộ trở thành khu vực phát triển đồng đều, hiệu quả và ổn định.

Thực trạng đại đoàn kết dân tộc tại vùng Đông Nam Bộ hiện nay
Về ưu điểm:
Thứ nhất, sự hiện diện của một kiến trúc chính trị thượng tầng vững chắc, với vai trò hạt nhân lãnh đạo của Đảng và vị trí trung tâm của Mặt trận Tổ quốc, là ưu điểm đặc biệt quan trọng, bảo đảm cho khối đại đoàn kết dân tộc vận hành như một chỉnh thể thống nhất, có định hướng và tổ chức. Đây chính là ưu thế về năng lực kiến tạo và dẫn dắt. Trong bối cảnh bộ máy nhà nước đang được tinh gọn, vai trò này không những không suy giảm mà còn được khẳng định ở tầm mức cao hơn, thể hiện ở năng lực thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật – tạo nên hành lang chính trị, pháp lý để quy tụ, điều hòa và định hướng các nguồn lực xã hội.

Sự đồng thuận xã hội tại vùng Đông Nam Bộ vì thế không phải là trạng thái tự phát, mà là kết quả của một quá trình vận động, giáo dục, thuyết phục và tổ chức thực tiễn hiệu quả. Mặt trận Tổ quốc cùng các tổ chức chính trị – xã hội, với tư cách là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, ngày càng thực hiện thực chất hơn chức năng giám sát và phản biện xã hội, đồng thời kiến tạo các kênh dân chủ để nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước. Điều này không chỉ củng cố tính chính danh của hệ thống chính trị, mà còn biến tinh thần đoàn kết thành sức mạnh vật chất có tổ chức, có mục tiêu và định hướng rõ ràng.

Thứ hai, cấu trúc kinh tế – xã hội đa dạng và năng động của vùng vừa là môi trường, vừa là cơ sở vật chất khách quan để củng cố, tái tạo khối đại đoàn kết. Đây chính là ưu thế về nền tảng vật chất và sự liên kết hữu cơ. Sự hội tụ của các luồng di dân lao động, sự hiện diện phong phú của các thành phần kinh tế, dân tộc, tôn giáo đã hình thành một xã hội cởi mở, có khả năng dung hợp và thích ứng cao. Quan trọng hơn, sự vận hành mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo ra mối liên kết, phụ thuộc lẫn nhau một cách tất yếu giữa các giai cấp, tầng lớp và cộng đồng dân cư trong các chuỗi giá trị.

Lợi ích của mỗi cá nhân, mỗi tập thể ngày càng gắn bó chặt chẽ với lợi ích chung của toàn vùng và cả nước, qua đó hình thành một nền tảng bền vững cho sự đoàn kết. Trên cơ sở đó, việc thực thi nhất quán chính sách dân tộc, tôn giáo theo phương châm bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng đã biến sự đa dạng văn hóa – vốn tiềm ẩn nguy cơ xung đột – trở thành nguồn lực nội sinh cho phát triển. Nhờ vậy, Đông Nam Bộ không chỉ xây dựng được nền tảng xã hội ổn định, mà còn khẳng định khả năng tự điều chỉnh cao trước những biến động của thời kỳ hội nhập sâu rộng.

Thứ ba, truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc đã được kế thừa và chuyển hóa thành một dạng “vốn xã hội đặc biệt”, có khả năng kích hoạt và huy động nguồn lực cộng đồng to lớn nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, nhất là trước các thách thức an ninh phi truyền thống. Đây chính là ưu thế về năng lực nội sinh và sức mạnh mềm.

Sức mạnh tinh thần ấy không tĩnh tại mà luôn được tái tạo, nâng lên tầm cao mới qua mỗi giai đoạn lịch sử, được minh chứng rõ nét qua khả năng biến ý chí thống nhất thành hành động cách mạng cụ thể: từ việc huy động nguồn lực xã hội khổng lồ để triển khai các công trình hạ tầng trọng điểm quốc gia, đến việc quy tụ sức mạnh tổng lực toàn xã hội để ứng phó thành công với những biến cố bất ngờ, điển hình như đại dịch COVID-19. Trong nhiều tình huống, khi hệ thống công quyền có lúc quá tải, chính các thiết chế đoàn kết tự quản trong cộng đồng, các mạng lưới hỗ trợ tự phát dựa trên tình đồng bào đã phát huy hiệu quả mạnh mẽ.

Điều đó khẳng định một chân lý sâu sắc: tại Đông Nam Bộ, đoàn kết không chỉ là một giá trị truyền thống mà đã trở thành một phương thức tồn tại, một nguồn lực nội sinh vô tận cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Một số vấn đề bất cập, hạn chế
Thứ nhất, về cơ chế điều phối và liên kết vùng
. Cơ chế điều phối phát triển vùng Đông Nam Bộ hiện vẫn còn nhiều bất cập, thiếu một khung pháp lý đủ mạnh để ràng buộc trách nhiệm và chia sẻ lợi ích giữa các địa phương. Trên thực tế, mỗi tỉnh, thành vẫn có xu hướng ưu tiên chiến lược phát triển riêng lẻ, thiếu sự phối hợp tổng thể, dẫn tới tình trạng “mạnh ai nấy làm” trong phát triển hạ tầng và thậm chí là cạnh tranh ngầm trong thu hút đầu tư. Điều này không chỉ làm giảm hiệu quả sử dụng nguồn lực chung của toàn vùng mà còn tạo ra sự phân tán, chồng chéo trong định hướng phát triển, đi ngược lại mục tiêu liên kết vùng theo tinh thần Nghị quyết 24-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Thứ hai, khoảng trống thể chế trung gian và xã hội dân sự chưa đáp ứng yêu cầu. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội tại vùng, dù đã có nhiều nỗ lực đổi mới, nhưng vẫn còn nặng tính hành chính, hình thức, thiếu sự linh hoạt để thích ứng với nhu cầu đa dạng của xã hội hiện đại. Thực tế cho thấy, nhiều báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân dân vẫn lặp lại các vấn đề dân sinh bức xúc kéo dài, phản ánh hạn chế trong việc giải quyết kiến nghị từ cơ sở. Điều này cho thấy hoạt động tiếp xúc, lắng nghe và phản ánh ý kiến nhân dân vẫn chưa đi vào chiều sâu và tính thực chất.

Các phương thức tiếp cận mới, như ứng dụng công nghệ thông tin, đối thoại trực tuyến, hay phát huy mạng lưới cộng đồng tự quản chưa được triển khai đồng bộ và hiệu quả. Đồng thời, sự thiếu vắng những “thể chế mềm” như cơ chế tham vấn cộng đồng, tổ chức phản biện xã hội độc lập hay hình thức tự quản địa phương đã làm giảm cơ hội để người dân tham gia vào quản trị xã hội. Khoảng trống thể chế này không chỉ khiến tính dân chủ và minh bạch trong quản lý xã hội bị hạn chế, mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả quản trị công, qua đó làm suy yếu nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thứ ba, chuyển đổi số chưa hỗ trợ hiệu quả cho kết nối xã hội. Chuyển đổi số đang được đẩy mạnh tại vùng Đông Nam Bộ, trở thành một trong những động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, tiến trình này hiện vẫn chủ yếu tập trung vào cải cách thủ tục hành chính, xây dựng chính quyền điện tử và cung cấp dịch vụ công trực tuyến. Theo Báo cáo Chỉ số chuyển đổi số cấp tỉnh năm 2022 của Bộ Thông tin và Truyền thông, các địa phương Đông Nam Bộ đạt kết quả cao ở trụ cột “Chính quyền số”, nhưng trụ cột “Xã hội số” vẫn còn hạn chế, với chỉ 17/63 tỉnh, thành trên toàn quốc có điểm số đạt mức trung bình trở lên.

Đặc biệt, các nền tảng số phục vụ đối thoại, phản biện xã hội, tham vấn cộng đồng trong xây dựng và giám sát chính sách còn rất hạn chế, chủ yếu mang tính thông tin một chiều, thiếu cơ chế phản hồi hai chiều thực chất giữa Nhà nước và Nhân dân. Bên cạnh đó, sự thiếu hụt các công cụ kỹ thuật số hỗ trợ người dân tiếp cận thông tin về chính sách, quy hoạch và dự án phát triển đã làm gia tăng khoảng cách số trong quan hệ Nhà nước – xã hội, ảnh hưởng đến tính minh bạch, sự tin cậy và hiệu quả của quá trình kết nối cộng đồng.

Thứ tư, không gian đối thoại giữa chính quyền và người dân còn hạn chế. Tình trạng mất cân đối thông tin và thiếu không gian đối thoại thực chất, minh bạch giữa chính quyền và Nhân dân đang trở thành một điểm nghẽn đáng lo ngại tại vùng Đông Nam Bộ. Các hình thức tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, hay đối thoại giữa lãnh đạo chính quyền với người dân ở nhiều địa phương vẫn còn mang tính hình thức, chưa đi vào chiều sâu. Việc thiếu cơ chế phản hồi định kỳ, cùng với sự hạn chế trong trách nhiệm giải trình của cơ quan công quyền, đã làm giảm niềm tin và kỳ vọng của người dân vào các kênh đối thoại chính thức.

Đáng chú ý, sự thiếu vắng cơ chế tham vấn và sự tham gia thực chất của người dân trong quá trình xây dựng, ban hành và thực thi chính sách – nhất là ở các lĩnh vực nhạy cảm như thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng, quy hoạch đô thị, đầu tư công – đang làm giảm tính dân chủ trong quản lý xã hội. Theo Báo cáo Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) năm 2022 do UNDP công bố, mức độ tham gia của người dân vào tham vấn chính sách tại Đông Nam Bộ chỉ đạt 37,7%, thấp hơn mức trung bình toàn quốc 39,8%, cho thấy nhu cầu cấp thiết phải mở rộng và nâng cao chất lượng các kênh đối thoại.

Thứ năm, bản sắc cộng đồng và mô hình kinh tế hợp tác chưa được phát huy hiệu quả. Quá trình đô thị hóa nhanh chóng, sự phát triển mạnh của kinh tế thị trường cùng làn sóng di cư lao động quy mô lớn đã làm biến đổi sâu sắc cấu trúc xã hội và các mô hình kinh tế cộng đồng truyền thống tại Đông Nam Bộ. Theo Báo cáo ngành nghề nông thôn Việt Nam năm 2022 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nhiều làng nghề truyền thống trong vùng đang dần mai một do tác động của đô thị hóa, áp lực cạnh tranh thị trường và thiếu lực lượng kế thừa, dù chưa có số liệu cụ thể về mức độ suy giảm.

Các mô hình hợp tác xã gắn với bản sắc văn hóa địa phương cũng bị thay thế dần bởi hình thức kinh doanh đơn lẻ. Báo cáo tổng hợp Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016–2020 cho thấy, tỷ lệ hộ gia đình tham gia vào các mô hình kinh tế tập thể ở nông thôn Đông Nam Bộ hiện chỉ còn dưới 9%. Trong khi đó, di cư lao động quy mô lớn đã tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ trong cấu trúc cộng đồng: theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, tỷ lệ gia tăng dân số do di cư tại Đông Nam Bộ chiếm tới 52% tổng mức tăng dân số toàn vùng. Các khu dân cư mới, với thành phần cư dân đa dạng về xuất thân vùng miền, thường có mức độ gắn kết xã hội thấp, đặt ra thách thức lớn trong việc duy trì và phát huy giá trị cộng đồng truyền thống.

Thứ sáu, nguồn lực kiều bào và trí thức người Việt ở nước ngoài chưa được phát huy hiệu quả. Nguồn lực kiều bào, bao gồm tài chính, tri thức, kinh nghiệm quốc tế và tinh thần gắn bó với quê hương là một lợi thế chiến lược đối với sự phát triển của vùng Đông Nam Bộ. Tuy nhiên, dù Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1797/QĐ-TTg năm 2019 phê duyệt Chiến lược công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài đến năm 2030, việc cụ thể hóa và triển khai các chính sách tại cấp địa phương trong vùng vẫn còn hạn chế.

Điều này khiến cho tiềm năng to lớn từ cộng đồng kiều bào và trí thức người Việt ở nước ngoài chưa được chuyển hóa thành động lực thực sự, cả về đầu tư tài chính, chuyển giao công nghệ lẫn kết nối tri thức quốc tế, để phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội vùng Đông Nam Bộ.

Một số giải pháp phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong phát triển kinh tế, xã hội vùng Đông Nam Bộ hiện nay
Hoàn thiện thể chế điều phối và liên kết vùng trên nền tảng đại đoàn kết

Đây là giải pháp then chốt nhằm khắc phục những bất cập trong cơ chế điều phối và liên kết hiện nay, vốn đang làm suy giảm khả năng phát huy sức mạnh tổng hợp của vùng Đông Nam Bộ. Trước hết, cần khẩn trương rà soát, hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế hoạt động của Hội đồng Điều phối vùng theo hướng trao thực quyền, nâng cao tính pháp lý, đảm bảo nguồn lực độc lập và tăng cường thẩm quyền trong điều phối đầu tư, quy hoạch và phân bổ nguồn lực công bằng giữa các địa phương.

Đồng thời, xây dựng mô hình quản trị đa chủ thể hiệu quả, khuyến khích sự tham gia thực chất của chính quyền, cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và đội ngũ chuyên gia độc lập. Để hỗ trợ quá trình ra quyết định, cần thiết lập và vận hành hiệu quả hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu chung của vùng, nhằm bảo đảm quyết sách dựa trên dữ liệu và tăng cường minh bạch.

Song song đó, việc thúc đẩy hợp tác công – tư (PPP) trong đầu tư hạ tầng và các dự án trọng điểm liên vùng phải được coi là ưu tiên chiến lược. Đặc biệt, cần đưa các tiêu chí “đoàn kết cộng đồng”, “chia sẻ lợi ích”, “phát triển bao trùm” trở thành chỉ số quan trọng trong đánh giá hiệu quả đầu tư công và hoạch định chính sách.

Hoàn thiện thể chế điều phối vùng không chỉ tạo nền tảng pháp lý và cơ chế vận hành hiệu quả để các địa phương phối hợp chặt chẽ, hạn chế cạnh tranh nội bộ, giải quyết các vấn đề liên vùng, mà còn trực tiếp củng cố sự gắn kết, đồng thuận giữa các chủ thể trong vùng, qua đó phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết dân tộc.

Củng cố và đổi mới mạnh mẽ hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội
Để khắc phục khoảng trống thể chế trung gian và phát huy vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội, cần thể chế hóa mạnh mẽ hơn chức năng giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng và chính quyền theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật. Trên cơ sở đó, xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ, có tính ràng buộc giữa cấp ủy, chính quyền với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách.

Đồng thời, phải trao quyền chủ động và đảm bảo nguồn lực cần thiết để các tổ chức này thực hiện đối thoại với Nhân dân, lấy ý kiến cộng đồng, giám sát hoạt động của cơ quan công quyền một cách độc lập, thực chất và hiệu quả. Nội dung và phương thức hoạt động cũng cần được đổi mới mạnh mẽ theo hướng bám sát thực tiễn, ứng dụng công nghệ số, đa dạng hóa hình thức tập hợp quần chúng, đặc biệt chú trọng tới các nhóm xã hội đặc thù.

Một trọng tâm khác là nâng cao vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đoàn viên, hội viên và Nhân dân. Việc củng cố và đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội không chỉ giúp thiết lập kênh thông tin hai chiều giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân, mà còn tạo cơ chế xử lý kịp thời mâu thuẫn xã hội, củng cố niềm tin chính trị và tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tại vùng Đông Nam Bộ.

Đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện, hướng tới xây dựng nền tảng số cho đại đoàn kết xã hội
Chuyển đổi số cần được định hướng không chỉ là động lực phát triển kinh tế – xã hội, mà còn là công cụ quan trọng để củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. Trước hết, cần đẩy nhanh xây dựng và hoàn thiện hệ sinh thái chính quyền số liên vùng, đồng thời ưu tiên phát triển nền tảng số hỗ trợ kết nối xã hội, bảo đảm tương tác hai chiều, minh bạch giữa chính quyền và Nhân dân.

Cần phát triển các ứng dụng di động, cổng thông tin cho phép người dân dễ dàng tiếp cận thông tin chính thống về chính sách, quy hoạch, dự án của vùng và địa phương; đồng thời tạo lập các kênh phản hồi, góp ý, phản biện chính sách và giám sát hoạt động của cơ quan công quyền một cách nhanh chóng, thuận tiện và minh bạch trên môi trường mạng.

Song song đó, phải đầu tư đồng bộ hạ tầng số, mở rộng mạng lưới internet băng thông rộng tới khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa; đẩy mạnh đào tạo, phổ cập kỹ năng số cho người dân, đặc biệt là nhóm yếu thế như người cao tuổi, đồng bào dân tộc thiểu số, lao động phổ thông. Khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức xã hội, cộng đồng phát triển nền tảng số phục vụ lợi ích chung, tăng cường tương tác và gắn kết nội bộ.

Xây dựng nền tảng số cho đại đoàn kết xã hội sẽ tạo ra không gian tương tác mở, minh bạch, nơi mọi người dân đều có thể tham gia, bày tỏ ý kiến, đóng góp và đồng hành cùng chính quyền. Đây cũng là bước đi quan trọng để hình thành một “nền dân chủ số”, tăng cường sự gắn kết giữa các tầng lớp nhân dân, giữa Nhân dân với Nhà nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết trong kỷ nguyên số 4.0.

Xây dựng và vận hành hiệu quả cơ chế đối thoại, tham vấn nhân dân
Cần chuẩn hóa, thể chế hóa và luật hóa quy trình tổ chức đối thoại định kỳ giữa lãnh đạo cấp ủy, chính quyền với Nhân dân, trong đó quy định rõ ràng về tần suất, hình thức, nội dung đối thoại và trách nhiệm giải trình sau đối thoại. Đồng thời, phải nâng cao năng lực, kỹ năng đối thoại, lắng nghe và tiếp thu ý kiến cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.

Hình thức đối thoại cần được đa dạng hóa (trực tiếp, trực tuyến), bảo đảm sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là những nhóm chịu tác động trực tiếp từ chính sách, dự án. Song song, thiết lập cơ chế tiếp nhận, xử lý và phản hồi ý kiến, kiến nghị một cách minh bạch, kịp thời, có trách nhiệm giải trình. Điều này gắn liền với việc bảo đảm quyền thông tin, quyền tham vấn và quyền tham gia của Nhân dân trong quá trình xây dựng, ban hành và thực thi chủ trương, chính sách.

Một cơ chế đối thoại, tham vấn hiệu quả sẽ góp phần tạo dựng môi trường dân chủ, cởi mở, nơi tiếng nói của Nhân dân được lắng nghe, tôn trọng và phản hồi đầy đủ. Đây là yếu tố quan trọng để củng cố niềm tin xã hội, giải quyết kịp thời mâu thuẫn, bất đồng, từ đó xây dựng sự đồng thuận chính trị – xã hội và tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

Phát triển kinh tế cộng đồng gắn với bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa vùng
Cần áp dụng cách tiếp cận mới trong phát triển kinh tế, coi cộng đồng là chủ thể và bản sắc văn hóa là nguồn lực nội sinh. Trên cơ sở đó, xây dựng và triển khai các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển mạnh mẽ các mô hình kinh tế tập thể, kinh tế cộng đồng theo hướng hiệu quả, bền vững như: hợp tác xã kiểu mới, tổ hợp tác, chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ gắn với sản phẩm đặc thù, chương trình OCOP, du lịch cộng đồng.

Cộng đồng cần được hỗ trợ tiếp cận nguồn vốn ưu đãi, khoa học – công nghệ, thị trường và đào tạo kỹ năng quản lý. Đồng thời, phải lồng ghép hiệu quả yếu tố văn hóa, bản sắc địa phương vào phát triển kinh tế, biến di sản văn hóa và tri thức bản địa thành lợi thế cạnh tranh. Đặc biệt, cần có chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế cho đồng bào dân tộc thiểu số và khu vực nông thôn vùng ven, bảo đảm nguyên tắc không ai bị bỏ lại phía sau.

Phát triển kinh tế cộng đồng gắn với bảo tồn bản sắc văn hóa không chỉ tạo sinh kế bền vững mà còn củng cố sự gắn kết nội bộ, phát huy vai trò tự quản và làm chủ của Nhân dân. Đây chính là cách để thể chế hóa tinh thần đại đoàn kết dân tộc ngay từ cấp cơ sở, biến giá trị đoàn kết truyền thống thành động lực phát triển thực chất trong bối cảnh hội nhập sâu rộng.

Thu hút, phát huy hiệu quả nguồn lực kiều bào và trí thức người Việt ở nước ngoài
Cần xây dựng cơ chế, chính sách đột phá, thông thoáng và hấp dẫn để thu hút, sử dụng và phát huy hiệu quả nguồn lực từ kiều bào và trí thức người Việt ở nước ngoài. Một trong những giải pháp trọng tâm là thành lập các tổ chức tư vấn, hội đồng chuyên gia, mạng lưới kết nối gồm trí thức, doanh nhân kiều bào uy tín nhằm tham gia đóng góp ý kiến vào quá trình hoạch định chính sách, chiến lược và quy hoạch phát triển vùng.

Bên cạnh đó, cần tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh minh bạch, thuận lợi và bình đẳng, qua đó khuyến khích kiều bào yên tâm đầu tư, chuyển giao công nghệ, phát triển các lĩnh vực ưu tiên như công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, tài chính, giáo dục, y tế. Đồng thời, tổ chức thường xuyên các chương trình, diễn đàn, sự kiện kết nối để tăng cường sự gắn bó, phát huy tinh thần hướng về quê hương, khuyến khích kiều bào tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện, văn hóa.

Quan trọng hơn, cần coi kiều bào là bộ phận không tách rời của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và là nguồn lực chiến lược cho phát triển Đông Nam Bộ. Việc thu hút và phát huy hiệu quả nguồn lực này không chỉ bổ sung tài chính, tri thức, công nghệ và mạng lưới quốc tế, mà còn củng cố mối liên hệ máu thịt giữa đồng bào trong nước và kiều bào, mở rộng và tăng cường sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong bối cảnh hội nhập toàn cầu.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, Đông Nam Bộ chỉ có thể giữ vững vai trò đầu tàu khi biết kết hợp hài hòa các xu thế mới như kinh tế số, chuỗi cung ứng toàn cầu và đổi mới sáng tạo với mô hình phát triển bao trùm, dựa trên nền tảng đoàn kết và chia sẻ. Một chiến lược phát triển bài bản, lấy đại đoàn kết dân tộc làm điểm tựa, sẽ giúp Đông Nam Bộ trở thành hình mẫu về một vùng phát triển thông minh, bền vững và giàu bản sắc. Qua đó, khu vực tiếp tục khẳng định vị thế đầu tàu, đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của đất nước trong giai đoạn mới – giai đoạn “vươn mình mạnh mẽ” của dân tộc.

TS.Bùi Nghĩa – Th.S.Trần Quyết Thắng/ Học viện Chính trị khu vực II

Tài liệu tham khảo
1.Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “Một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, Hà Nội, 2017.
2.Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tiếp tục đổi đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, Hà Nội, 2017.
3.Bộ Chính trị, Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 07/10/2022 về phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Hà Nội, 2022.
4.Đảng Cộng sản Việt Nam (2004). Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 36. H. Nxb Chính trị quốc gia.
5.Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 611.
6.Quyết định số 1797/QĐ-TTg ngày 12 tháng 12 năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Huy động người Việt Nam ở nước ngoài tham gia giới thiệu, tiêu thụ sản phẩm và phát triển các kênh phân phối hàng Việt Nam ở nước ngoài, giai đoạn 2020 – 2024”.
7.Tạp chí Cộng sản, “Đại đoàn kết toàn dân tộc – cội nguồn của ý chí, niềm tin, sức mạnh để xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong kỷ nguyên mới”, Tạp chí Cộng sản, tại https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/dai-doan-ket-toan-dan-toc-coi-nguon-cua-y-chi-niem-tin-suc-manh-de-xay-dung-bao-ve-to-quoc-trong-ky-nguyen-moi.
8.Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 825/QĐ-TTg ngày 12/7/2023 về việc thành lập Hội đồng Điều phối vùng Đông Nam Bộ, Hà Nội, 2023.