Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển mình quan trọng của cơ cấu dân số trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng. Kết quả nghiên cứu mới cho thấy, đến năm 2030, số người từ 60 tuổi trở lên có thể đạt gần 18 triệu, báo hiệu tốc độ già hóa dân số nhanh chóng. Các chuyên gia cảnh báo, Việt Nam chỉ còn khoảng 6–10 năm để tận dụng hiệu quả giai đoạn dân số vàng trước khi đối mặt với những thách thức lớn về nguồn lao động, an sinh xã hội và phát triển bền vững.

Nghiên cứu phân tích thực trạng dân số Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế được thực hiện dựa trên số liệu Điều tra dân số giữa kỳ năm 2024 và báo cáo kinh tế – xã hội 9 tháng năm 2025. Kết quả cho thấy, đến ngày 1/4/2024, dân số Việt Nam đạt 101,1 triệu người và dự kiến khoảng 102 triệu vào năm 2025, xếp thứ 16 thế giới và thứ ba khu vực ASEAN.
Tốc độ tăng dân số giai đoạn 2019–2024 giảm còn 0,99%/năm, phản ánh rõ xu hướng chuyển đổi dân số. Nhóm người từ 60 tuổi trở lên đạt 14,2 triệu, với chỉ số già hóa ở mức 60,2%. Tổng tỷ suất sinh giảm xuống còn 1,91 con/phụ nữ – thấp hơn mức sinh thay thế; trong khi đó, tỷ số giới tính khi sinh vẫn ở mức cao 111,4 bé trai/100 bé gái.
Chất lượng dân số tiếp tục được cải thiện: tuổi thọ trung bình đạt 74,7 năm; tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ trong 9 tháng đầu năm 2025 tăng lên 29,1%. Về kinh tế, GDP bình quân đầu người năm 2024 ước đạt khoảng 4.700 USD. Nền kinh tế ghi nhận mức tăng trưởng tích cực, với GDP 9 tháng năm 2025 tăng 7,85%. Lực lượng lao động cả nước đạt 53,1 triệu người, trong đó có 52,0 triệu người có việc làm.
Kết quả nghiên cứu mới cho thấy, đến năm 2030, số người từ 60 tuổi trở lên có thể đạt gần 18 triệu, báo hiệu tốc độ già hóa dân số nhanh chóng. Các chuyên gia cảnh báo, Việt Nam chỉ còn khoảng 6–10 năm để tận dụng hiệu quả giai đoạn dân số vàng trước khi đối mặt với những thách thức lớn về nguồn lao động, an sinh xã hội và phát triển bền vững.
Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
Nghiên cứu được triển khai theo cách tiếp cận kết hợp giữa phân tích định lượng và so sánh số liệu theo thời gian cũng như theo vùng. Nguồn dữ liệu trong nước được thu thập từ Điều tra dân số giữa kỳ năm 2024 (thời điểm 01/4/2024), Niên giám Thống kê 2024, cùng với các Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội quý III và 9 tháng năm 2025 của Tổng cục Thống kê. Đối chiếu quốc tế sử dụng các nguồn đáng tin cậy như World Population Prospects 2024 của Liên Hợp Quốc, World Development Indicators 2024 của Ngân hàng Thế giới, cùng thông tin từ UNFPA và ASEAN. Việc so sánh giữa các quốc gia trong khu vực được thực hiện dựa trên số liệu công bố của cơ quan thống kê 10 nước ASEAN.
Phân tích theo vùng kinh tế được tiến hành dựa trên hệ thống phân vùng chính thức của Chính phủ, gồm: Đồng bằng sông Hồng; Trung du và miền núi phía Bắc; Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung; Tây Nguyên; Đông Nam Bộ; và Đồng bằng sông Cửu Long.
Các chỉ tiêu dân số học được sử dụng trong nghiên cứu bao gồm: tỷ suất sinh thô, tỷ suất chết thô, tổng tỷ suất sinh, tuổi thọ trung bình, tỷ số phụ thuộc và chỉ số già hóa, được tính toán theo hệ thống phương pháp của Liên Hợp Quốc. Bên cạnh đó, phần đánh giá chất lượng dân số tập trung vào các khía cạnh giáo dục, y tế, thu nhập và kỹ năng lao động, qua đó phác họa rõ nét đặc điểm và mức độ phát triển dân số Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
Kết quả nghiên cứu
Quy mô và cơ cấu dân số
Theo Tổng cục Thống kê (2025, tr.10), dân số Việt Nam tại thời điểm 1/4/2024 đạt 101.112.656 người. So với năm 2019, dân số tăng thêm 4,9 triệu người, tương ứng tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2019–2024 đạt 0,99%/năm, giảm 0,23 điểm phần trăm so với giai đoạn 2014–2019. Mật độ dân số đạt 305 người/km², thuộc nhóm cao trong khu vực. Việt Nam hiện là quốc gia đông dân thứ ba Đông Nam Á sau Indonesia và Philippines, đồng thời đứng thứ 16 trên thế giới (Tổng cục Thống kê, 2024, tr.10). Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (2024), dân số Indonesia đạt 283,5 triệu người, Philippines 115,8 triệu, Thái Lan 71,7 triệu và Malaysia 35,6 triệu người. Quy mô dân số lớn mang lại lợi thế về thị trường và nguồn lao động, song cũng đặt ra sức ép đáng kể đối với tài nguyên và môi trường.
Cơ cấu dân số Việt Nam tiếp tục thay đổi nhanh chóng. Nhóm 0–14 tuổi chiếm hơn 23% dân số; nhóm trong độ tuổi lao động (15–64 tuổi) chiếm trên 67%; nhóm từ 65 tuổi trở lên chiếm hơn 9%. Số người từ 60 tuổi trở lên đạt 14,2 triệu, tăng 2,8 triệu so với năm 2019. Chỉ số già hóa năm 2024 ở mức 60,2%, cho thấy Việt Nam đang bước sâu vào giai đoạn già hóa dân số. So với các nước ASEAN, tốc độ già hóa của Việt Nam thuộc nhóm nhanh nhất. Trong khi nhiều quốc gia phát triển mất từ 50 đến 100 năm để tỷ lệ người cao tuổi tăng từ 7% lên 14%, Việt Nam chỉ mất khoảng 20–25 năm. Dù Singapore, Malaysia và Thái Lan cũng già hóa nhanh, song các nước này có mức thu nhập bình quân cao hơn nhiều, trong khi Việt Nam đang đối mặt nguy cơ “già trước khi giàu.”
Về giới tính khi sinh, năm 2024 tỷ số đạt 111,4 bé trai/100 bé gái (Cục Thống kê – Bộ Tài chính, 2025), cao hơn cả Trung Quốc và Ấn Độ. Một số địa phương như Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương có tỷ số vượt 118. Hiện tượng này xuất phát từ tâm lý ưa con trai và xu hướng lựa chọn giới tính trước sinh. Nếu tình trạng tiếp diễn, đến năm 2035, Việt Nam có thể dư khoảng 2–2,5 triệu nam giới trong độ tuổi kết hôn, gây mất cân bằng giới và tạo áp lực lên thị trường hôn nhân cũng như các vấn đề xã hội liên quan, đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt trong hoạch định chính sách dân số và bình đẳng giới.
Phân bố dân số theo vùng
Đồng bằng sông Hồng tiếp tục là vùng có quy mô dân cư lớn nhất cả nước, với khoảng 24 triệu người, chiếm 23,7% tổng dân số. Tây Nguyên là vùng thưa dân nhất, chỉ khoảng 6,2 triệu người (6,2%). Đông Nam Bộ duy trì quy mô dân số cao, đạt khoảng 19–20 triệu người. Mật độ dân số giữa các vùng chênh lệch đáng kể: Đồng bằng sông Hồng đạt 1.126 người/km², Đông Nam Bộ 814 người/km², trong khi Tây Nguyên chỉ 114 người/km². Hai đô thị đặc biệt là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh lần lượt có 8.685.607 và 9.521.886 người, chiếm gần 18% dân số cả nước, thể hiện rõ xu hướng tập trung dân cư vào các trung tâm đô thị lớn.
Tốc độ tăng dân số khu vực thành thị giai đoạn 2019–2024 đạt bình quân 3,06%/năm, cao hơn khoảng 1,5 lần so với giai đoạn 2014–2019. Dân số thành thị hiện chiếm 38,2%, trong khi khu vực nông thôn chiếm 61,8%. Trong số các vùng kinh tế, Đông Nam Bộ có tốc độ tăng dân số cao nhất (1,46%/năm), trái lại Đồng bằng sông Cửu Long chỉ đạt 0,29%/năm và đang đối mặt tình trạng suy giảm dân số lao động nghiêm trọng. Trong khoảng mười năm qua, vùng này mất khoảng 1–1,5 triệu lao động do di cư, ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế – xã hội địa phương.
Hiện cả nước có khoảng 4 triệu người di cư, chiếm 4,3% dân số từ 5 tuổi trở lên. Mặc dù tổng dân số vẫn tăng, quy mô và tỷ lệ người di cư đang giảm, xuống mức thấp nhất kể từ năm 1999. Một xu hướng đáng chú ý là “nữ hóa di cư”: nữ giới chiếm 55,7% tổng số người di cư, phản ánh sự chuyển dịch trong lựa chọn việc làm và cơ hội kinh tế giữa các vùng, cũng như vai trò ngày càng lớn của phụ nữ trong thị trường lao động.
Chất lượng dân số
Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam năm 2024 đạt 74,7 tuổi; trong đó nam 72,3 tuổi và nữ 77,3 tuổi. Mức này cao hơn nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình thấp (69 tuổi), nhưng vẫn thấp hơn Singapore (83 tuổi), Nhật Bản (84 tuổi) và Hàn Quốc (83 tuổi). Trong khu vực ASEAN, Việt Nam xếp sau Singapore, Brunei, Malaysia và Thái Lan về chỉ số tuổi thọ.
Giữa các vùng trong nước vẫn tồn tại sự chênh lệch đáng kể. Người dân tại TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội có tuổi thọ trung bình khoảng 76–77 tuổi, trong khi tại nhiều tỉnh Tây Nguyên, con số này chỉ đạt khoảng 69–70 tuổi. Sự khác biệt này phản ánh điều kiện y tế, môi trường sống và mức thu nhập còn chênh lệch giữa các vùng. Tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi đạt 11,3‰, còn tỷ suất chết trẻ em dưới 5 tuổi là 16,9‰, cho thấy chất lượng chăm sóc sức khỏe đã có những cải thiện quan trọng trong những năm gần đây.
Trong lĩnh vực giáo dục, tỷ lệ đi học chung cấp tiểu học đạt 98,7%, trung học cơ sở 95,6% và trung học phổ thông 79,9%. Tỷ lệ người có trình độ trung học phổ thông trở lên chiếm 40% dân số từ 15 tuổi trở lên, tăng 3,5 điểm phần trăm so với năm 2019. Số năm đi học kỳ vọng đạt 12,6 năm, nhỉnh hơn so với mức 12,2 năm của năm 2019, phản ánh tiến bộ trong phổ cập giáo dục và tiếp cận cơ hội học tập.
Về kỹ năng lao động, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2024 đạt 28,3%, tăng 1,1 điểm phần trăm so với năm 2023 (ASEAN Secretariat, 2024). Tuy nhiên, so với Malaysia (trên 35%) và Thái Lan (trên 30%), tỷ lệ này vẫn còn thấp. Khoảng 72% lao động chưa có bằng cấp, chủ yếu làm việc trong khu vực nông nghiệp và các ngành dịch vụ giản đơn – cho thấy nhu cầu cấp thiết nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong giai đoạn tới.
Về kinh tế – xã hội, GDP bình quân đầu người năm 2024 ước đạt 4.700 USD, tăng 377 USD so với năm 2023, đưa Việt Nam tiến gần ngưỡng thu nhập trung bình cao (trên 4.096 USD). Năng suất lao động toàn nền kinh tế đạt 9.182 USD/lao động, tăng 726 USD so với năm trước. Tuy nhiên, khoảng cách với các nền kinh tế phát triển vẫn còn lớn, khi Singapore đạt trên 70.000 USD/người và Malaysia khoảng 11.000 USD.
Thu nhập bình quân đầu người năm 2024 đạt khoảng 5,4 triệu đồng/tháng, tăng 8,8% so với năm 2023. Chất lượng cuộc sống người dân ngày càng được cải thiện: tỷ lệ hộ sống trong nhà kiên cố và bán kiên cố đạt 97,7%; diện tích nhà ở bình quân 29 m²/người; và tỷ lệ hộ sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 98,7%. Những chỉ số này cho thấy mức sống của người dân đang được nâng lên theo hướng ổn định và bền vững hơn.
Cơ hội từ cơ cấu dân số
Việt Nam hiện vẫn đang trong giai đoạn “cửa sổ dân số vàng”. Nhóm dân số trong độ tuổi lao động (15–64 tuổi) chiếm hơn 67% tổng dân số, với tỷ số phụ thuộc duy trì ở mức khoảng 49%. Điều này có nghĩa là cứ 100 người trong độ tuổi lao động phải gánh 49 người phụ thuộc, thấp hơn so với Philippines (58) và tương đương Indonesia (48), nhưng vẫn cao hơn Thái Lan (42) và Singapore (38).
Theo nghiên cứu của Mason (2005) về “cổ tức dân số” tại Đông Á, khoảng một phần ba tăng trưởng kinh tế của khu vực đến từ lợi thế cơ cấu dân số thuận lợi. Park và Shin (2011) cũng ước tính yếu tố này đóng góp trung bình 1–2% vào tăng trưởng GDP hằng năm trong giai đoạn cao điểm. Với cơ cấu dân số hiện nay, Việt Nam hoàn toàn có thể tận dụng được lợi thế tương tự nếu có chính sách kinh tế – xã hội phù hợp và được triển khai nhất quán.
Tăng trưởng kinh tế đang phản ánh phần nào lợi thế nhân khẩu học. GDP quý III/2025 ước tăng 8,23% so với cùng kỳ; tính chung 9 tháng, GDP tăng 7,85%. Nền kinh tế đang phục hồi mạnh sau đại dịch, tận dụng tốt lực lượng lao động trẻ và năng động. Quý III/2025, lực lượng lao động đạt khoảng 53,3 triệu người; bình quân 9 tháng là 53,1 triệu người, tăng hơn 556 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Số lao động có việc làm đạt 52,3 triệu người (bình quân 9 tháng là 52,0 triệu), tăng 552,3 nghìn người. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động duy trì ở mức cao, từ 68,2% đến 68,6% (Cục Thống kê – Bộ Tài chính, 2025).
Chi phí lao động của Việt Nam vẫn tương đối thấp so với nhiều quốc gia công nghiệp hóa trong khu vực. Mức lương tối thiểu vùng I giai đoạn 2024–2025 khoảng 4,8 triệu đồng/tháng (tương đương 200 USD), thấp hơn đáng kể so với Trung Quốc (350–450 USD) và Thái Lan (330 USD). Đây là một lợi thế quan trọng trong thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt ở các ngành sản xuất và công nghiệp chế biến.
Dân số trẻ, với độ tuổi trung bình 32,9, là điểm mạnh của Việt Nam trong quá trình chuyển đổi số và phát triển kinh tế số. Tỷ lệ người dùng Internet đạt 84%, trong khi tỷ lệ sở hữu điện thoại thông minh vượt 75%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 9 tháng năm 2025 tăng 9,5% so với cùng kỳ, phản ánh sức mua và năng lực tiêu dùng trong nước đang hồi phục mạnh mẽ.
Thách thức từ chuyển đổi dân số
Tuy nhiên, Việt Nam đang bước vào giai đoạn già hóa dân số với tốc độ nhanh chưa từng có. Dự báo đến năm 2030, cả nước sẽ có gần 18 triệu người từ 60 tuổi trở lên, tăng gần 4 triệu người so với năm 2024. Đến năm 2040, tỷ lệ người cao tuổi dự kiến vượt 20% và đến năm 2050 có thể đạt từ 25–28% tổng dân số.
Tốc độ già hóa nhanh trong khi hệ thống an sinh xã hội vẫn còn nhiều hạn chế. Tính đến ngày 31/12/2024, chỉ có 20,11 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội, tương đương 42,71% lực lượng lao động. Như vậy, hơn 57% lao động chưa có bảo hiểm hưu trí. Hiện có khoảng 14,5 triệu người cao tuổi không tham gia bảo hiểm xã hội và không có lương hưu, khiến vấn đề bảo đảm an sinh cho nhóm dân số này trở nên cấp thiết.
Gánh nặng chăm sóc người cao tuổi đang dần chuyển từ phạm vi gia đình sang phạm vi xã hội. Số giường bệnh dành cho người cao tuổi mới đạt khoảng 2–3 giường/1.000 người, thấp hơn rất nhiều so với Nhật Bản (59 giường) và Hàn Quốc (54 giường). Trung bình, người từ 60 tuổi trở lên mắc khoảng 2,6 bệnh mạn tính; riêng nhóm trên 80 tuổi có thể mắc tới 6,9 bệnh.
Cửa sổ dân số vàng của Việt Nam đang thu hẹp nhanh. Dự báo tỷ số phụ thuộc sẽ tăng trở lại từ giai đoạn 2028–2030 khi lực lượng lao động bắt đầu giảm tuyệt đối. Quy mô lực lượng lao động được dự báo đạt đỉnh 61–62 triệu người vào năm 2030, sau đó giảm dần. Thời gian để tận dụng tối đa lợi thế nhân khẩu học vì thế không còn nhiều.
Mức sinh trong hai năm 2023–2024 giảm nhanh hơn dự kiến. Tổng tỷ suất sinh năm 2024 đạt 1,91 con/phụ nữ, thấp hơn mức sinh thay thế (2,1). Ở khu vực thành thị, mức sinh chỉ đạt 1,67 con/phụ nữ, trong khi nông thôn là 2,08. Bộ Y tế dự báo xu hướng giảm này sẽ còn tiếp diễn; nếu kéo dài, Việt Nam có thể bước vào giai đoạn suy giảm dân số trong vòng 20–30 năm tới.
Mất cân bằng giới tính khi sinh tiếp tục là thách thức lớn. Hiện tượng này tiềm ẩn nhiều hệ lụy xã hội như mất cân bằng hôn nhân, kết hôn muộn, không kết hôn, cùng các rủi ro gia tăng về buôn bán phụ nữ, trẻ em và bạo lực giới. Song song đó, di cư lao động tạo áp lực đáng kể lên quản lý đô thị, nhà ở và hệ thống hạ tầng xã hội.
Chất lượng nguồn nhân lực vẫn chưa theo kịp yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Báo cáo của McKinsey (2018) chỉ ra rằng 50–70% công việc hiện nay tại Việt Nam có khả năng bị tự động hóa trong vòng 10–20 năm tới. Nếu không kịp thời nâng cao kỹ năng và năng lực lao động, Việt Nam có nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình, làm suy giảm lợi thế cạnh tranh và cản trở mục tiêu phát triển bền vững.
So sánh với các nước trong khu vực
Trong khu vực ASEAN, Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với các nền kinh tế mới nổi nhưng cũng thể hiện những khác biệt đáng chú ý. Về mức sinh, Việt Nam hiện đạt 1,91 con/phụ nữ, thấp hơn Philippines (2,4) và Indonesia (2,2), nhưng cao hơn Thái Lan (1,3) và Singapore (1,0). Tốc độ giảm sinh của Việt Nam diễn ra nhanh hơn so với phần lớn quốc gia trong khu vực, phản ánh quá trình chuyển đổi nhân khẩu học mạnh mẽ và sớm bước vào giai đoạn mức sinh thấp.
Về già hóa dân số, Việt Nam đang ở giai đoạn tương đương Indonesia và Malaysia, song tốc độ dự báo lại nhanh hơn đáng kể. Trong khi Singapore và Thái Lan đã trở thành những xã hội già từ sớm, họ đạt được điều đó trong bối cảnh mức thu nhập bình quân đầu người cao hơn nhiều so với Việt Nam hiện nay. Điều này cho thấy Việt Nam đang phải đối mặt với hiện tượng “già hóa khi còn nghèo”, kéo theo sức ép lớn hơn đối với hệ thống an sinh xã hội, y tế và thị trường lao động.
Về chất lượng nguồn nhân lực, Việt Nam hiện ở nhóm trung bình khá trong ASEAN, xếp sau Singapore, Brunei và Malaysia, nhưng cao hơn Indonesia, Philippines và các nước CLMV (Campuchia, Lào, Myanmar). Tuy nhiên, khoảng cách về năng suất lao động vẫn còn lớn: năng suất của Việt Nam mới đạt khoảng 8–10% so với Singapore, 25% so với Malaysia và 40% so với Thái Lan. Điều này cho thấy dư địa cải thiện vẫn rất lớn, phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng nhân lực, đổi mới công nghệ và hiệu quả thể chế thị trường lao động.
Kinh nghiệm từ các quốc gia trong khu vực cho thấy vai trò then chốt của chính sách dân số trong dài hạn. Thái Lan từng tận dụng tốt giai đoạn dân số vàng (1980–2010) nhưng hiện phải đối mặt với già hóa nhanh và thiếu hụt lao động. Singapore lại lựa chọn chiến lược đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục, thu hút nhân tài quốc tế và phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Malaysia chủ động cải cách hệ thống bảo hiểm xã hội từ sớm, tạo nền tảng vững chắc cho quá trình già hóa dân số. Những bài học này mang ý nghĩa tham chiếu quan trọng, giúp Việt Nam định hình chiến lược dân số, phát triển phù hợp trong giai đoạn tới.
Định hướng chính sách và Dự thảo Luật Dân số 2025
Theo chỉ đạo của Thứ trưởng Bộ Y tế, Cục Dân số đang hoàn thiện Dự thảo Luật Dân số để trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 10 năm 2025. Dự thảo nhằm thể chế hóa Nghị quyết số 21-NQ/TW, đánh dấu bước chuyển trọng tâm từ chính sách kế hoạch hóa gia đình truyền thống sang cách tiếp cận dân số và phát triển toàn diện, bao quát các yếu tố về quy mô, cơ cấu, phân bố, chất lượng dân số và các hệ sinh thái chính sách liên quan.
Về quy mô dân số, dự thảo nhấn mạnh mục tiêu duy trì mức sinh thay thế, bảo đảm cân bằng phát triển lâu dài. Cặp vợ chồng và cá nhân được quyền chủ động quyết định thời điểm sinh, số con và khoảng cách giữa các lần sinh. Chính sách hướng tới khuyến khích sinh đủ hai con tại các khu vực có mức sinh giảm sâu, đồng thời hỗ trợ nhóm dân cư khó khăn tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản an toàn, bình đẳng và chất lượng.
Về ứng phó với già hóa dân số, dự thảo đề xuất nhiều giải pháp dài hạn, tập trung vào nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn cung lao động, đặc biệt là nhóm lao động lớn tuổi; nghiên cứu điều chỉnh tuổi nghỉ hưu đối với một số ngành nghề đặc thù; phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng, đa trụ cột nhằm mở rộng độ bao phủ và đảm bảo tính bền vững tài chính; đồng thời nâng cấp hệ thống y tế và dịch vụ chăm sóc người cao tuổi, mở rộng các mô hình chăm sóc dài hạn, chăm sóc tại nhà và tại cộng đồng.
Bên cạnh những thách thức, nhiều chuyên gia nhận định rằng quá trình già hóa cũng mở ra cơ hội hình thành “kinh tế bạc” (silver economy), một hệ sinh thái kinh tế xoay quanh nhu cầu của người cao tuổi. Đây được xem là thị trường tiềm năng cho các doanh nghiệp trong các lĩnh vực công nghệ sức khỏe, dịch vụ chăm sóc dài hạn, thực phẩm dinh dưỡng, du lịch y tế, đào tạo và dịch vụ xã hội, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và đổi mới sáng tạo trong bối cảnh dân số đang thay đổi nhanh chóng.
Năm 2024, dân số Việt Nam đạt 101,1 triệu người và dự kiến chạm mốc 102 triệu vào năm 2025. Đất nước đang bước qua một giai đoạn chuyển đổi dân số sâu sắc, nơi cơ hội và thách thức song hành. Về quy mô, Việt Nam vẫn giữ vị thế là quốc gia đông dân thứ ba Đông Nam Á, sở hữu thị trường nội địa lớn và nguồn lao động dồi dào. Cơ cấu dân số hiện nay còn thuận lợi, song “cửa sổ dân số vàng” chỉ còn kéo dài khoảng 6–10 năm, đòi hỏi những quyết sách nhanh chóng và đúng hướng để tận dụng tối đa lợi thế này.
Năm 2025 ghi nhận nhiều tín hiệu tích cực: GDP 9 tháng tăng 7,85%; lực lượng lao động đạt 53,1 triệu người; tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ tăng lên 29,1%; thu nhập bình quân đạt 8,3 triệu đồng/tháng, tăng 10%; trong khi tỷ lệ thất nghiệp duy trì ở mức thấp 2,22%. Những chỉ số này cho thấy Việt Nam vẫn đang khai thác tương đối hiệu quả lợi thế của cơ cấu dân số trẻ và năng động.
Tuy nhiên, các thách thức đã hiện rõ. Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa nhanh nhất khu vực, trong khi hệ thống an sinh xã hội còn nhiều hạn chế: chỉ 42,71% lao động tham gia bảo hiểm xã hội và có tới 14,5 triệu người cao tuổi chưa có lương hưu. Tổng tỷ suất sinh giảm xuống 1,91 con/phụ nữ, mức thấp nhất từ trước tới nay, dưới mức sinh thay thế, tiềm ẩn nguy cơ suy giảm dân số trong dài hạn. Mất cân bằng giới tính khi sinh ở mức 111,4 bé trai/100 bé gái có thể dẫn tới dư thừa từ 1,5–2,5 triệu nam giới trong giai đoạn 2039–2059, kéo theo những hệ lụy xã hội đáng quan ngại.
Chất lượng dân số tiếp tục được cải thiện nhưng chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của nền kinh tế tri thức. Phân bố dân cư cũng mất cân đối: riêng Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ tập trung tới 43% dân số, trong khi Đồng bằng sông Cửu Long đang đối mặt tình trạng suy giảm lao động ngày càng nghiêm trọng, tạo áp lực lớn đối với chiến lược phát triển vùng.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam cần một chiến lược dân số toàn diện và dài hạn. Thứ nhất, duy trì mức sinh thay thế thông qua các chính sách hỗ trợ sinh đủ hai con, đồng thời xử lý mất cân bằng giới tính bằng giáo dục, truyền thông và biện pháp pháp lý. Thứ hai, đầu tư mạnh vào giáo dục – đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu của Cách mạng công nghiệp 4.0. Thứ ba, cải cách hệ thống bảo hiểm xã hội theo hướng đa tầng, đa trụ cột; mở rộng độ bao phủ; xây dựng mạng lưới chăm sóc người cao tuổi bền vững; và xem xét điều chỉnh tuổi nghỉ hưu phù hợp với thực tế cơ cấu lao động. Thứ tư, quy hoạch lại phân bố dân cư, thúc đẩy phát triển cân bằng giữa các vùng kinh tế – xã hội. Thứ năm, chủ động nắm bắt cơ hội từ “kinh tế bạc” (silver economy), thị trường dịch vụ và sản phẩm dành cho người cao tuổi – như một động lực tăng trưởng mới.
Có thể nói, các quyết sách được ban hành trong 5–10 năm tới sẽ định hình cấu trúc dân số và năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam trong nhiều thập kỷ. Việc xây dựng và ban hành Luật Dân số 2025 đánh dấu bước chuyển quan trọng từ tư duy kiểm soát số lượng sang tư duy phát triển toàn diện về quy mô, cơ cấu và chất lượng dân số. Đây là một bài toán lớn nhưng hoàn toàn khả thi nếu có sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và toàn xã hội.
Nguyễn Thị Hương/Trường Đại học Lao Động – Xã Hội, CSII, TP. Hồ Chí Minh
Tài liệu tham khảo
ASEAN Secretariat (2024). ASEAN Key Figures 2024. ASEAN Secretariat. Jakarta.
Cục thống kê – Bộ Tài chính (2025). Báo cáo 334/BC-CTK về tình hình kinh tế – xã hội quý III và 9 tháng năm 2025. Hà Nội.
Macromicro. (n.d.). ASEAN population. https://en.macromicro.me/collections/1773/asean/831/asean-population
Mason, A. (2005). Demographic transition and demographic dividends in developed and developing countries. United Nations Expert Group Meeting on Social and Economic Implications of Changing Population Age Structures. Mexico City.
Park, D., & Shin, K. (2011). Impact of population aging on Asia’s future growth (ADB Economics Working Paper Series No. 281). Manila: Asian Development Bank.
Statista. (n.d.). Total population of ASEAN countries. https://www.statista.com/statistics/796222/total-population-of-the-asean-countries/
Tổng cục Thống kê (2025). Niên giám thống kê Việt Nam năm 2025. Nxb. Thống kê. Hà Nội.
Tổng Cục thống kê (2025). Kết quả Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024. Nxb. Thống kê.
World Bank (2024). World Development Indicators 2024. Washington, DC: World Bank.
Xây dựng Chính sách – Chính phủ Việt Nam (2025). Toàn văn Dự thảo Luật Dân số. https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-du-thao-luat-dan-so-119250528140923455.htm


