Thứ Ba, Tháng 12 2, 2025
* Email: bbt.dongnama@gmail.com *Tòa soạn: 0989011688 - 0768908888
spot_img

Tầm vóc Đại tướng Lê Đức Anh trong tư duy quốc phòng và nghệ thuật giữ nước thời kỳ đổi mới

Kỷ niệm 105 năm ngày sinh Đại tướng Lê Đức Anh (1/12/1920 – 1/12/2021)

ĐNA -

Chiều 1/12/2025, tại Hà Nội, nhân dịp kỷ niệm 105 năm ngày sinh nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh (1/12/1920 – 1/12/2025), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức Hội thảo khoa học “Đồng chí Lê Đức Anh – Nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và Nhà nước”. Hội thảo là dịp ôn lại cuộc đời, sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đại tướng Lê Đức Anh, người chiến sĩ kiên trung, vị tướng tài ba và nhà lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, cống hiến trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.

Đại tướng Lê Đức Anh (1/12/1920 – 1/12/2025)

Sự kiện cũng góp phần khẳng định những giá trị tư tưởng, đạo đức và phong cách của Đại tướng Lê Đức Anh đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.

Tại Hội thảo, hơn 20 tham luận và ý kiến được gửi đến và trình bày đã làm sâu sắc thêm những hoạt động, cống hiến to lớn của Đại tướng Lê Đức Anh đối với Đảng và cách mạng Việt Nam. Các ý kiến tập trung phân tích hình ảnh nhà chỉ huy quân sự tài ba trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như trong việc thực hiện nghĩa vụ quốc tế; nhà lãnh đạo sáng tạo, có đóng góp quan trọng vào quá trình ổn định và phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới; đồng thời là tấm gương người cộng sản kiên trung, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Các đại biểu tham dự Hội thảo khẳng định, những cống hiến và kinh nghiệm quý báu mà Đại tướng Lê Đức Anh để lại vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay, nhất là trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên phát triển mới với nhiều kỳ vọng lớn lao, được toàn Đảng, toàn quân, toàn dân chung sức phấn đấu thực hiện.

Ban Biên tập Tạp chí Đông Nam Á trích dẫn một số bài viết về Đại tướng Lê Đức Anh, Người chỉ huy bản lĩnh, biết tiến, biết lui vì đại cục. Ông là một vị tướng giỏi, luôn biết khi nào cần tấn công, khi nào nên phòng thủ, khi nào “lui một bước để tiến ba bước”. Ở ông, bản lĩnh người chỉ huy và tầm nhìn chiến lược luôn hòa quyện với tinh thần trách nhiệm cao nhất đối với Tổ quốc và nhân dân.

Lịch sử không bao giờ quên những con người đã trọn đời vì dân, vì nước. Trong suốt cuộc đời binh nghiệp, Đại tướng luôn có mặt ở những chiến trường ác liệt, những thời điểm cam go nhất của cách mạng, trực tiếp chỉ huy nhiều trận đánh quan trọng và luôn giành thắng lợi ở những nơi gian khó nhất. Hình ảnh vị tướng lĩnh kiên cường, bình dị, gắn bó cùng đồng chí, đồng đội trên mọi mặt trận đã trở thành biểu tượng sáng ngời của tinh thần cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX, một nhân cách lớn, một tấm gương để các thế hệ hôm nay và mai sau noi theo.

Đại tướng Lê Đức Anh (hàng đầu bên phải) với các lãnh đạo Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh

Kiên quyết nổ súng để thống nhất đất nước
Sau khi Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết (ngày 27/1/1973), chính quyền Sài Gòn đã ngang nhiên vi phạm các điều khoản của hiệp định, ráo riết thực hiện kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ”, đẩy mạnh các hoạt động bình định, lấn chiếm vùng giải phóng.

Trước tình hình đó, nếu tuyệt đối chấp hành lệnh “5 cấm chỉ”, gồm: cấm tấn công vũ trang, cấm bao vây đồn bốt, cấm đánh địch bung ra, cấm pháo kích, cấm lập xã ấp chiến đấu – thì nguy cơ mất đất, mất dân là điều khó tránh khỏi.

Khi ấy, cấp trên nhận định có hai khả năng phát triển của tình hình: một là tiếp tục đấu tranh trong hòa bình, buộc đối phương thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Paris; hai là chiến tranh có thể trở lại. Dựa trên xu thế hòa hợp dân tộc, nhiều ý kiến nghiêng về khả năng thứ nhất. Lệnh “5 cấm chỉ” được ban hành trong tinh thần đó.

Tuy nhiên, tại chiến trường Quân khu 9, Tư lệnh Lê Đức Anh đã thể hiện bản lĩnh của một người chỉ huy dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Dưới sự lãnh đạo của Khu ủy, ông đã chỉ đạo kiên quyết nổ súng đánh trả, bẻ gãy các cuộc càn quét, lấn chiếm của địch, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng, bảo vệ nhân dân.

Thực hiện đúng tinh thần Nghị quyết 15 (năm 1959) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, lấy bạo lực cách mạng làm con đường để thống nhất đất nước, Tư lệnh Lê Đức Anh đã lãnh đạo Quân khu 9 không chỉ giữ được đất, giữ được dân, mà còn mở rộng vùng kiểm soát, tạo thế và lực mới cho toàn miền Nam.

Thực tế chiến trường Quân khu 9 đã góp phần quan trọng để Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết 21 (năm 1974), khẳng định con đường cách mạng của miền Nam là con đường bạo lực cách mạng, tiếp tục thực hiện đúng tinh thần của Nghị quyết 15. Chính quyết định đúng đắn, kiên cường đó đã xoay chuyển cục diện chiến trường, tạo đà cho những thắng lợi liên tiếp, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước vào mùa xuân năm 1975.

Có thể nói, nếu không có Nghị quyết 15, và nếu như năm 1973 chúng ta không kiên quyết tiếp tục con đường đó, thì đất nước có lẽ đã phải chịu cảnh chia cắt đau thương lâu hơn nữa.

Đại tướng Lê Đức Anh qua đời vào hồi 20 giờ 10 phút, ngày 22 tháng 4 năm 2019. Một ngôi mộ bình dị nằm ở góc Nghĩa trang thành phố Hồ Chí Minh.

Giải ván cờ thế: Biên giới phía Bắc, Biển Đông, Chiến trường Campuchia
Trong giai đoạn 1987–1989, đất nước ta đứng trước tình thế đặc biệt khó khăn: biên giới phía Bắc căng thẳng, Biển Đông tiềm ẩn nhiều bất ổn, và chiến trường Campuchia vẫn còn phức tạp. Bên cạnh đó, Việt Nam bị bao vây, cấm vận về kinh tế, cô lập về chính trị và ngoại giao, khiến mọi quyết sách chiến lược đều phải được cân nhắc trong mối quan hệ đan xen của ba vấn đề trọng yếu ấy.

Biên giới phía Bắc: Quyết định táo bạo, sáng suốt và mang tầm chiến lược
Sau khi trở về Bộ Quốc phòng năm 1986 từ chiến trường Campuchia và được bổ nhiệm làm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Đại tướng Lê Đức Anh đã trực tiếp thị sát toàn tuyến biên giới phía Bắc để nắm chắc tình hình.

Theo lời kể của Đại tướng Phạm Văn Trà và Trung tướng Hoàng Nghĩa Khánh, sau khi đánh giá thực tiễn, Đại tướng ra lệnh ngừng bắn trả địch, chuyển trọng tâm sang địch vận và tuyên truyền – thông qua việc phát loa, bắn pháo truyền đơn sang phía Trung Quốc để làm dịu căng thẳng. Kết quả, tình hình dần ổn định, phía bên kia ngừng bắn pháo sang ta.

Trên cơ sở đó, ông chủ trương rút bớt các chốt tiếp cận, đưa lực lượng chủ lực về tuyến sau, giao cho dân quân, bộ đội địa phương và Bộ đội Biên phòng đảm nhiệm phòng tuyến biên giới quốc gia. Nhiều cán bộ chỉ huy khi ấy lo ngại rủi ro, nhưng Đại tướng kiên quyết giữ vững quyết định và nhận trách nhiệm cá nhân. Thực tế cho thấy, đây là một quyết định táo bạo, song vô cùng sáng suốt, góp phần giảm căng thẳng biên giới, đồng thời mở ra bước đi quan trọng cho tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt – Trung sau này.

Biển Đông: Kiên định bảo vệ chủ quyền, bình tĩnh ứng phó khiêu khích
Năm 1987, khi giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh đối mặt với tình hình Biển Đông hết sức phức tạp, đặc biệt tại quần đảo Trường Sa – nơi có sáu bên tuyên bố chủ quyền, trong đó năm bên có lực lượng hiện diện.

Đến cuối năm 1986, Việt Nam đang đóng giữ 9 đảo, trong khi Philippines, Malaysia, Trung Quốc và Đài Loan cũng lần lượt mở rộng phạm vi kiểm soát. Từ cuối năm 1986, Trung Quốc và Malaysia gia tăng hoạt động quân sự, đặc biệt là đưa tàu chiến, tàu trinh sát đến khu vực.

Trước tình hình đó, Đại tướng hai lần trực tiếp làm việc với Bộ Tư lệnh Hải quân và Vùng 4 Hải quân, chỉ đạo bảo vệ vững chắc chủ quyền và mở rộng điểm đóng giữ. Ngày 6/11/1987, ông ký Mệnh lệnh số 1679/ML-QP, yêu cầu:

“Đưa lực lượng ra đóng giữ các bãi cạn chưa có người, không chờ chỉ thị cấp trên; trước mắt triển khai tại Đá Tây, Chữ Thập, Đá Lớn, Tiên Nữ… Nếu đối phương xâm phạm hoặc dùng vũ lực uy hiếp thì kiên quyết đánh trả, song phải luôn cảnh giác, tỉnh táo, không mắc mưu khiêu khích.”

Thực hiện mệnh lệnh này, từ đầu năm 1988 đến ngày 15/3/1988, ta đã đóng giữ thêm 11 đảo, nâng tổng số điểm giữ lên 21 thực thể, gấp hơn hai lần giai đoạn trước đó. Dù xảy ra xung đột tại khu vực Gạc Ma – Cô Lin – Len Đao, nhưng ta kiềm chế, không để chiến sự lan rộng, giữ vững thế chủ động chiến lược và bảo toàn lực lượng.

Ngay sau sự kiện này, Việt Nam tiếp tục đóng giữ thêm Đá Nam và Đá Thị, hoàn toàn không xảy ra xung đột, khẳng định bản lĩnh, trí tuệ và tầm nhìn chiến lược của Đại tướng Lê Đức Anh trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia mà vẫn giữ vững môi trường hòa bình, ổn định.

Đại tướng Lê Đức Anh, tầm nhìn chiến lược của nhà quân sự – nhà chính trị lớn
Những quyết định táo bạo, sáng suốt của Đại tướng Lê Đức Anh trong giai đoạn 1987–1989 thể hiện tư duy chiến lược toàn diện, kết hợp giữa kiên định nguyên tắc và linh hoạt sách lược. Ở biên giới phía Bắc, ông chọn con đường kiềm chế, chủ động tạo hòa hiếu để giữ vững ổn định lâu dài. Trên Biển Đông, ông lại kiên quyết, chủ động mở rộng điểm đóng giữ, khẳng định chủ quyền bất khả xâm phạm của Tổ quốc nhưng vẫn tránh đối đầu leo thang, giữ thế vừa rắn rỏi, vừa mềm dẻo trong xử lý tình huống.

Đó không chỉ là bản lĩnh của một vị tướng tài trong chiến tranh, mà còn là tầm nhìn của một nhà chính trị – ngoại giao chiến lược trong thời bình, luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết. Những quyết sách của ông trong thời điểm khó khăn nhất của đất nước đã đặt nền móng cho hòa bình, ổn định và phát triển, đồng thời để lại bài học quý báu về nghệ thuật lãnh đạo, về bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam trong bảo vệ Tổ quốc.

Nhìn lại chặng đường hoạt động cách mạng của Đại tướng Lê Đức Anh, có thể khẳng định rằng ở ông hội tụ phẩm chất của một người chiến sĩ kiên trung, một vị tướng tài ba và một nhà lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược sâu rộng. Dù ở bất kỳ cương vị nào, Đại tướng luôn thể hiện tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đặt lợi ích của Tổ quốc và nhân dân lên trên hết.

Những quyết sách mang dấu ấn sâu sắc của Đại tướng trong các giai đoạn bước ngoặt – từ chỉ huy chiến trường đến hoạch định chính sách quốc phòng và đối ngoại – đã góp phần giữ vững độc lập, chủ quyền, bảo vệ môi trường hòa bình, ổn định, đồng thời mở ra thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế cho đất nước.

Cuộc đời và sự nghiệp của Đại tướng Lê Đức Anh là tấm gương sáng về lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, là biểu tượng của bản lĩnh, trí tuệ và nhân cách người lính Cụ Hồ – để các thế hệ hôm nay và mai sau học tập, noi theo.

Vào 20 giờ 10 phút ngày 22/4/2019, Đại tướng Lê Đức Anh từ trần, hưởng thọ 99 tuổi. Ngôi mộ giản dị của ông nằm tại Nghĩa trang Thành phố Hồ Chí Minh, như chính con người ông, mộc mạc, kiên cường, suốt đời vì dân, vì nước.

Thế Nguyễn