(Đà Nẵng). “Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, đã đặt ra mục tiêu quan trọng là “Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo góp phần quan trọng xây dựng, phát triển giá trị văn hoá, xã hội, con người Việt Nam, đóng góp vào chỉ số phát triển con người”. Đây là cơ sở chính trị quan trọng để gắn kết chặt chẽ hoạt động khoa học và công nghệ với phát triển văn hóa và con người trong bối cảnh mới”, TS Nguyễn Thanh Hồng, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Đà Nẵng nhấn mạnh.

Ngày 4/12/2025, Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Đà Nẵng đã tổ chức phiên hội thảo khoa học về “Chương trình nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ trong phát triển văn hóa, con người thành phố Đà Nẵng”.
Đây là phiên tham vấn quan trọng, thu thập ý kiến từ cơ quan quản lý, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, các chuyên gia trong và ngoài thành phố để hoàn thiện nội dung, xây dựng bài bản, khoa học “Chương trình nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ trong phát triển văn hóa, con người thành phố Đà Nẵng”, trước khi trình UBND thành phố chính thức phê duyệt.
Thời gian qua, Tỉnh ủy Quảng Nam và Thành ủy Đà Nẵng đã ban hành nhiều nghị quyết, chương trình, đề án nhằm cụ thể hóa chủ trương quan trọng này. Sau khi sắp xếp lại đơn vị hành chính, Thành ủy Đà Nẵng (mới) cũng đã tiếp tục cụ thể hóa chủ trương của TW, thông qua kế hoạch số 02-KH/TU ngày 23/9/2025 về thực hiện kết luận số 156-KL/TW ngày 21/5/2025 của Bộ Chính trị (tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của BCHTW Đảng khóa XI), về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và kết luận số 76-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XII về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW trên địa bàn thành phố”, TS Nguyễn Thanh Hồng, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Đà Nẵng cho biết.
Đặc biệt chú trọng “Đưa văn hóa Đà Nẵng lên nền tảng số”
TS Nguyễn Duy Phương, Trưởng khoa Sử – Địa – Chính trị, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng cho rằng những giá trị văn hóa cũng như kết quả nghiên cứu về văn hóa Đà Nẵng, hiện nay tương đối nhiều, nhưng mức độ lan tỏa còn hạn chế. Trong bối cảnh công nghệ bùng nổ, xu hướng tiếp cận thông tin của công chúng thay đổi, thì các nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ trong phát triển văn hóa, con người Đà Nẵng phải chú trọng đến nền tảng số, đó là cách nhanh nhất đến được với công chúng.
Chẳng hạn, thành phố dự kiến dữ liệu hóa và xây dựng thư viện số về di sản văn hóa các dân tộc thiểu số, phục vụ phát triển kinh tế xã hội, nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ xây dựng bản đồ số, đối với hệ thống di sản văn hóa phi vật thể quốc gia ở Đà Nẵng.
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở thư viện số, bản đồ số hóa thì chúng ta mới xây dựng kho dữ liệu. Do đó, cần phải tiến thêm bước nữa là từ kho dữ liệu đó, chuyển hóa lên web, đưa vào app (ứng dụng) để cho người dùng có thể tiếp cận được một cách nhanh nhất hay các bên liên quan có thể tiếp cận được.

Bảo tồn và phát huy giá trị Văn học Đất Quảng :Số hóa di sản văn học, bước đi cần thiết
Đề cập đến vai trò của việc bảo tồn, gìn giữ và phát huy giá trị của văn học Đất Quảng thông qua công trình nghiên cứu, sưu tầm, tổng hợp, biên tập, xuất bản số để truyền bá tư tưởng, ý thức hệ của các tác giả bằng các tác phẩm văn học có ảnh hưởng lớn đến vùng đất miền Trung và cả nước thế kỷ 20, TS Nguyễn Thu Phương, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Đà Nẵng, đề xuất phải số hóa dữ liệu từ những tuyển chọn và nghiên cứu các tác phẩm để rút ra tư tưởng, giá trị nghệ thuật, giá trị văn hóa, từ các sáng tác có chọn lọc của các sĩ phu yêu nước từ đầu thế kỷ 20 đến các tác giả tham gia cách mạng từ sau năm 1945, các tác giả có tác phẩm cống hiến trong hai cuộc kháng chiến chống Mỹ và chống Pháp, các tác giả được Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước về Văn học – Nghệ thuật….
Trong tham luận “Ứng dụng khoa học công nghệ trong nghiên cứu, xây dựng cơ sở dữ liệu, xuất bản số và giới thiệu Văn học Đất Quảng thế kỷ XX”, TS.Nguyễn Thu Phương nhấn mạnh rằng: “Văn học Việt Nam nói chung và văn học Đất Quảng nói riêng không chỉ ghi chép mà còn tái hiện sống động, phê phán, bảo vệ và dự báo sự vận động của hệ giá trị con người Đất Quảng thế kỷ 20. Trong đó, Văn học Đất Quảng với những cây bút nổi tiếng như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Phạm Phú Thứ, Phan Khôi, Nhất Linh, Thạch Lam… của thế hệ trước cùng với Hoàng Châu Ký, Bùi Giáng, Nguyễn Văn Bổng, Nguyễn Văn Xuân, … đến các nhà văn trưởng thành cùng cách mạng như Lưu Quang Thuận, Phan Tứ, Lưu Trùng Dương, Thu Bồn, Vũ Hạnh… rồi lớp trẻ hơn như Chu Cẩm Phong, Lưu Quang Vũ, Thanh Quế… đã góp phần “vào kho tư liệu sống động và trung thực nhất về hệ giá trị của người Việt Nam qua các thời kỳ. Khi các nhà nghiên cứu, nhà văn hóa, nhà sử học, doanh nghiệp công nghệ cùng nhau có một công trình khoa học nghiêm túc nghiên cứu về hệ giá trị con người Đất Quảng, qua Văn học thế kỷ XX, làm rõ thêm giá trị tư tưởng và tinh thần văn hóa của dân tộc và người dân khu V”.
“Giá trị của một Bảo tàng văn học không chỉ là nơi lưu giữ hiện vật, mà còn mang ý nghĩa sâu sắc về văn hóa, giáo dục, lịch sử và bản sắc dân tộc”, bà nhấn mạnh.
“Khi đúc kết thành dữ liệu số , những nhân vật lịch sử cụ thể, từng chí sỹ văn học cách mạng, tầm ảnh hưởng sẽ nâng lên tầm thời đại chứ không chỉ là những hợp tuyển. Dữ liệu số đó sẽ là kho tàng văn học sinh động có thể chia sẻ toàn cầu và là nền tảng để chúng ta có cơ sở xây dựng một Bảo tàng chuyên đề về văn học Đất Quảng thế kỷ 20. Giá trị của một Bảo tàng văn học sẽ không chỉ là nơi lưu giữ hiện vật của các nhà văn mà còn mang nhiều giá trị sâu sắc về văn hóa, giáo dục, lịch sử và bản sắc dân tộc. Chúng ta cần công tác sưu tầm tác phẩm, hiện vật, nghiên cứu, xuất bản số hóa dữ liệu, sử dụng công nghệ 3D, 4D tạo ra các không gian trải nghiệm, lập trình tương tác âm thanh, lồng tiếng nhà thơ, nhà văn, dùng AI tái tạo giọng nhà thơ nhà văn … {Đây là cách} lưu giữ giá trị truyền thống, phản ánh trung thực các chuẩn mực đạo đức, quan niệm sống, tín ngưỡng của từng thời kỳ; dựng lại bộ mặt tinh thần của cả dân tộc qua các nhân vật điển hình, tái hiện {trên nền tảng công nghệ} toàn bộ hệ giá trị đang chi phối hành vi người Việt Nam.
“Đó chính là cách lưu giữ giá trị truyền thống, phản ánh hệ giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam qua từng giai đoạn lịch sử”, TS. Nguyễn Thu Phương kết luận.

Nhận diện các giá trị văn hoá, con người thành phố Đà Nẵng
Trong tham luận (được chọn) phát biểu mở đầu phiên hội thảo: “Cơ sở lý luận, thực tiễn và Nhận diện các giá trị Văn hoá, Con người thành phố Đà Nẵng”- PGS. TS Nguyễn Thị Phương Châm (Viện Nghiên cứu Văn hoá) chỉ ra rằng: Khoáng đạt – Chân thật, Thẳng thắn, Nghĩa tình – Hiếu học, Trọng tri thức – Năng động, sáng tạo – Hài hoà, Dung hoà và Đa dạng là những giá trị tiêu biểu, giá trị nhân văn cốt lõi, giá trị nổi bật của văn hoá và con người Đà Nẵng hôm nay và xứ Quảng xưa
Trong đó, “Chân thật, Thẳng thắn, Nghĩa tình” được xem là giá trị nổi bật. Trong giao tiếp, người Đà Nẵng thật thà, thẳng thắn, nói thẳng, nói thật, cương trực, dám nói, dám góp ý thẳng, không giả tạo, không hình thức, không cố nói tốt để lấy lòng, có lẽ vì vậy mà trong diễn ngôn về tính cách vùng miền, dân gian đã cho rằng: “Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay lo, Bình Định nằm co, Thừa Thiên ăn hết”. Trong công việc, người Đà Nẵng trọng tinh thần “nói ít, làm nhiều”, “người thật việc thật”, lấy hiệu quả làm thước đo, văn hóa công vụ minh bạch, xử lý công việc nhanh, quyết đoán.

Khoáng đạt được xem là giá trị tiêu biểu được thể hiện rõ nét và sinh động ở điều kiện tự nhiên của Đà Nẵng (gắn với sự rộng dài của biển đảo, sự hào sảng của núi rừng, sự khoáng đạt của các dòng sông,…) và tư duy mở thoáng của con người (tư duy nhìn xa trông rộng, hướng sông, hướng biển, phát triển giao thương sớm,…). Qua quá trình phát triển của Đà Nẵng và qua đời sống hàng ngày cũng có thể nhận thấy giá trị này trong văn hoá và con người Đà Nẵng, ví dụ trong làm du lịch, Đà Nẵng là thành phố du lịch rất phát triển song không có hiện tượng chèo kéo, “chặt chém” khách du lịch; trong quy hoạch, xây dựng luôn trọng không gian thoáng, đường phố thẳng, rộng, ít lấn chiếm vỉa hè; trong giao tiếp, người Đà Nẵng, người xứ Quảng tỏ rõ sự cởi mở, thoải mái, không hoa mỹ, không câu nệ tiểu tiết, sống rộng rãi, dễ sẻ chia, không so đo hay tính toán vụn vặt,…;
Năng động, sáng tạo hai giá trị này {hòa quyện} gắn bó với văn hoá, con người Đà Nẵng và đã trở thành thương hiệu, nhắc đến Đà Nẵng ai cũng nghĩ ngay đến đây là một thành phố năng động, sáng tạo. Điều kiện tự nhiên và bối cảnh lịch sử đã góp phần tạo nên giá trị này của Đà Nẵng. {Và xuất phát điểm, bắt đầu từ } tinh thần Hiếu học, Trọng tri thứcI. Xứ Quảng xưa và Đà Nẵng hiện nay có truyền thống hiếu học, trọng tri thức với danh tiếng là “đất học” có các vị đại khoa được mệnh danh là “Ngũ phụng tề phi”, “Tứ kiệt”, “Tứ hổ”,… Trong số 32 khoa thi Hương ở Trường Thừa Thiên từ 1817 đến 1918 có 911 người đăng khoa, trong đó Quảng Nam có 252 người đỗ liên tiếp cả 32 khoa, Quảng Nam có 14 vị tiến sĩ và 25 phó bảng trong tổng số 558 vị cả nước.
Hài hoà, Dung hoà trở thành giá trị nhân văn cốt lõi của văn hoá, con người Đà Nẵng và là nền tảng vững chắc cho thành phố trong phát triển bền vững. Từ đặc thù vùng đất, con người, văn hoá đã khiến cho Đà Nẵng tiếp giáp với nhiều vùng văn hoá, nhiều cộng đồng cư dân, tham gia vào nhiều hoạt động giao thương nên người dân luôn sống trong môi trường giao lưu, tôn trọng những sự khác biệt văn hoá, nhường nhịn và hài hoà trong hợp tác. Bên cạnh đó, tính cách con người xứ Quảng cương trực, ngay thẳng, nghĩa tình nhưng rất trọng sự khoan dung. Giá trị hài hòa, dung hòa trong văn hoá, con người Đà Nẵng thể hiện sinh động qua sự hài hoà giữa con người và tự nhiên, con người với cộng đồng, xã hội, con người với thần linh, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng, giữa các nhóm văn hoá khác nhau,…
Đa dạng là giá trị rất đặc biệt với Đà Nẵng và giá trị này cũng được xem là nền tảng quan trọng định hình xu hướng phát triển của thành phố này. Xứ Quảng xưa, Đà Nẵng hiện nay luôn là một vùng có đa dạng sinh thái (với sông, hồ, đầm, biển, đảo, đồng bằng châu thổ, đồng bằng ven biển, trung du, miền núi); đa dạng tộc người (bên cạnh người Kinh, Đà Nẵng hiện tại có 42 dân tộc thiểu số); đa dạng các biểu đạt văn hoá (di tích, tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội, danh thắng, bảo tàng, chợ, phong tục tập quán, đời sống văn hoá làng, văn hoá ẩm thực, sinh hoạt nghệ thuật, tri thức dân gian,…).

Hiện nay, giá trị đa dạng ở Đà Nẵng còn được đẩy mạnh hơn nữa với đa dạng nguồn gốc dân cư (có nhóm cư dân tại chỗ, nhóm nhập cư, nhóm chuyên gia nước ngoài, nhóm khách du lịch,…); đa dạng các hoạt động sinh kế (nông nghiệp, công nghiệp, ngư nghiệp, làng nghề, dịch vụ, logistics,…); đa dạng tôn giáo tín ngưỡng (9 tôn giáo được công nhận và nhiều cộng đồng tôn giáo nhỏ cùng rất nhiều loại hình tín ngưỡng); đa dạng các loại hình nghệ thuật (âm nhạc, nghệ thuật trình diễn, nghệ thuật tạo hình, kiến trúc, cảnh quan,…); đa dạng ẩm thực (ẩm thực các vùng miền trên cả nước và ẩm thực các quốc gia như Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc, Pháp, Ý,…).
Giá trị đa dạng làm giàu có thêm cho văn hoá Đà Nẵng, giúp người dân gia tăng vốn văn hoá cùng sự hiểu biết liên văn hoá, đẩy mạnh thích ứng và linh hoạt. Giá trị đa dạng trở thành nguồn lực trong phát triển công nghiệp văn hoá, công nghiệp sáng tạo, du lịch và giúp làm nên một xã hội hài hoà, ổn định và nhân văn. Trong bối cảnh hiện tại, Đà Nẵng mở rộng địa giới, dân cư rất nhiều nên việc nhận diện đúng và đủ càng trở nên quan trọng để đánh giá chính xác về nguồn lực văn hoá, con người Đà Nẵng. Thực tế này tạo nên một Đà Nẵng mới với diện tích tăng tới 9,2 lần, dân số tăng hơn hai lần so với Đà Nẵng cũ, với sự mở rộng không gian từ biển đảo đến núi rừng, từ sông nước đến trung du, từ châu thổ đến đồng bằng ven biển, với sự đa dạng văn hoá của nhiều nhóm, địa phương, tộc người, với hệ thống di sản văn hoá đặc trưng và nổi tiếng (Hội An, Mỹ Sơn, Cù lao Chàm,…),…

Bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa qua nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới
Được biết, công việc nghiên cứu, ứng dụng công nghệ trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa thành phố Đà Nằng sẽ bao hàm khá nhiều lĩnh vực, từ di tích, bảo tồn di sản (trong đó có di sản văn hóa thế giới, di sản văn hóa phi vật thể – vật thể và di sản văn hoá đồng bào các dân tộc thiểu số); chuyển đổi số trong du lịch văn hóa, nghệ thuật biểu diễn, nhiếp ảnh – triển lãm… để phát triển công nghiệp văn hóa (ví dụ: Tái hiện không gian diễn xướng); xây dựng cơ sở dữ liệu số; xây dựng môi trường văn hóa số, giúp văn hóa thích ứng và tham gia điều tiết sự phát triển kinh tế – xã hội bền vững của địa phương trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Đề án cũng tính đến sẽ nghiên cứu ứng dụng công nghệ 4.0 trong bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử của di tích này bằng giải pháp phục chế số hóa, ứng dụng phác họa mô hình 3D tái hiện, phục dựng lại các công trình kiến trúc đã đổ nát. Phục dựng 3D cho các hiện vật tiêu biểu thuộc di tích, tích hợp vào hệ thống phục vụ tham quan trên môi trường mạng internet; định mã QR code thông tin đầy đủ, phản ánh được diện mạo cơ bản của di tích. Áp dụng số hóa 3D, sử dụng blockchain (công nghệ chuồi khối); NFC (công nghệ kêt nối không dây tầm ngắn) để định danh và quản lý các Bảo vật quốc gia ; cổ vật/hiện vật có giá trị cao. Đồng thời tạo mã QR để du khách tra cứu thông tin liên quan bẳng thiết bị di động và cho phép du khách dùng điện thoại thông minh tương tác đa chiều với toàn bộ thông tin lịch sử, nguồn gốc, ý nghĩa văn hóa, ảnh 3D cổ vật/hiện vật có giá trị cao trên không gian số.
Theo bà Lê Thị Thục, Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Đà Nẵng: “Ngành sẽ nghiên cứu, ứng dụng công nghệ trong công tác bảo tồn và phát huy cảc di sản văn hóa vật thể, phi vật thể và các loại hình nghệ thuật truyền thống {của thành phố}, có nguy cơ mai một. Đặc biệt chú trọng ứng dụng công nghệ trong trùng tu, bảo tồn, số hóa và quảng bá các di sản văn hóa vật thẻ. phi vật thê của Đà Nang ra thể giới, gắn với phát triển kinh tế, du lịch; bảo tồn di sản văn hoá đồng bào các dân tộc thiểu số. Mọi công việc, hạng mục được triển khai đều gắn với xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh; phát triên các mô hình kinh tế bền vững”./.
Trần Ngọc


