Thứ Bảy, Tháng 12 6, 2025
* Email: bbt.dongnama@gmail.com *Tòa soạn: 0989011688 - 0768908888
spot_img

Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ ở Việt Nam vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”



ĐNA -

Sau gần bốn thập niên đổi mới, Việt Nam đã khẳng định tính đúng đắn và sức sống của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, con đường tất yếu để hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Mô hình này kết hợp quy luật kinh tế thị trường với giá trị xã hội chủ nghĩa, trong đó Nhà nước kiến tạo, thị trường phân bổ nguồn lực, xã hội hài hòa lợi ích, đặt con người ở vị trí trung tâm của phát triển. Bài viết tập trung làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn nhằm minh định cho giá trị gắn với hệ mục tiêu nêu trên.

Các đại biểu tham quan các gian hàng trưng bày tại Diễn đàn Kinh tế hợp tác, hợp tác xã năm 2025

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hai hợp phần của chỉnh thể thống nhất với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” được xác định là mô hình phát triển xuyên suốt trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta kể từ sau đổi mới.

Đại hội VI, Đại hội của đổi mới (năm 1986), bên cạnh chủ trương đoạn tuyệt cơ chế tập trung, bao cấp, tạo lập cơ chế thị trường, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, Đảng đồng thời xác định: “Cần thể hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, khắc phục thái độ coi nhẹ chính sách xã hội, tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”1.

Đại hội lần thứ IX của Đảng, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam về cơ bản đã được định hình. Theo đó, mô hình này vừa phản ánh tính phổ quát của nền kinh tế thị trường hỗn hợp (thị trường và Nhà nước), vừa mang tính “định hướng xã hội chủ nghĩa”, với đặc trưng là nền kinh tế nhiều thành phần, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh nhằm mục tiêu: “Từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”2.

Từ Đại hội lần thứ X đến Đại hội lần thứ XIII của Đảng, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện về nội hàm, mở rộng về chủ thể và gắn kết chặt chẽ về cơ chế vận hành, hình thành chỉnh thể thống nhất trong biện chứng giữa nhà nước, thị trường và xã hội. Đó là mô hình kinh tế mở, hội nhập, nhiều thành phần kinh tế, với kinh tế nhà nước là chủ đạo, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng, vận hành trong sự kết hợp giữa cơ chế thị trường, quản lý Nhà nước và vai trò liên kết của các tổ chức xã hội, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Trong đó, thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển; Nhà nước định hướng, điều tiết vĩ mô nền kinh tế; xã hội phối hợp giải quyết hài hòa lợi ích giữa các chủ thể để tạo nên sức mạnh nội sinh tổng hợp, bảo đảm tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ môi trường sinh thái bền vững và mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, với “con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển”3.

Đặc biệt, để thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững trong kỷ nguyên kinh tế tri thức và sự bùng nổ của cuộc cách mạng số hóa, từ Đại hội lần thứ XI, Đảng đã đưa ra “mệnh lệnh” lịch sử: “Đổi mới mô hình tăng trưởng” trên cơ sở tích hợp với ba đột phá chiến lược (thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chất lượng nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng)4, gắn kết tiếp nối chủ trương của Đại hội Đảng lần thứ XIII: “Xây dựng nhà nước kiến tạo, chính phủ liêm chính, hành động, phục vụ”5.

Nhận thức và định vị “ba đột phá chiến lược” kết hợp với “nhà nước kiến tạo” nêu trên là sự cộng hưởng tư duy khoa học trong nguyên lý phát triển đương đại và sự nhạy bén với thực tiễn phát triển đất nước của Đảng. Bởi lẽ, lý thuyết về mô hình nhà nước kiến tạo phát triển (developmental state) trên cơ sở kết hợp lý thuyết kinh tế thể chế mới (new institutional economics) và lý thuyết phát triển năng lực của A.Sen (phổ biến rộng rãi từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997)6 hàm ý rằng, sức sáng tạo vô tận của con người là nhân tố trung tâm trong thời đại kinh tế tri thức. Hội tụ và lan tỏa giá trị tri thức trong môi trường thể chế sinh ra “ái lực” và chuyển hóa thành giá trị kinh tế trong không gian vật chất (cơ sở hạ tầng) đóng vai trò nền tảng phải là sản phẩm của một nhà nước kiến tạo phát triển, điều kiện thúc đẩy động lực tăng trưởng không trần giới hạn trong kỷ nguyên Cách mạng công nghiệp 4.0.

Như vậy, hàm chứa trong mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam sau gần 40 năm phát triển là sản phẩm của sự “tích hợp” tri thức nhân loại trên nền tảng các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, cùng với tiến trình “tự sinh” nội tại không ngừng trong thực tiễn đổi mới đất nước. Nó mang trong mình tầm vóc sáng tạo vĩ đại của Đảng được dẫn dắt bởi phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam không phải là mơ hồ, hư ảo trong sự hoài nghi, mà là hiện thực và tương lai, dựa trên các cơ sở vững chắc sau đây.

Thứ nhất, kinh tế thị trường không phải vốn dĩ là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản, mà là kết quả của tiến trình phát triển văn minh nhân loại. Vì vậy, theo Alvin Toffler (1980), kinh tế thị trường là một mạng lưới trao đổi được ví như một tổng đài, mà ở đó, hàng hóa, dịch vụ (cũng như tin tức) sẽ tìm tới nơi có nhu cầu. Do đó, nó không chỉ thuộc về tư bản, mà thiết yếu cho cả xã hội công nghiệp xã hội chủ nghĩa 7.

Thứ hai, khả năng hiện thực của định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ đơn thuần được phản ánh qua mục tiêu tuyên bố: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, mà gắn với điều kiện, nguồn lực và phương thức do Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam lãnh đạo, quản lý nhằm hiện thực hóa mục tiêu nêu trên. Thật vậy, với sức mạnh vật chất to lớn mà Nhà nước đại diện chủ sở hữu toàn dân trong nền kinh tế đa thành phần, “kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường”8.

Hơn thế, kinh tế thị trường ở Việt Nam là nền kinh tế kết hợp hữu cơ giữa cơ chế thị trường và vai trò quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản lãnh đạo – hai cột trụ nền tảng bảo đảm vững chắc quyền làm chủ của nhân dân – cơ sở thực hiện sự tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển kinh tế. Vì vậy, kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là hai hợp phần của một chỉnh thể thống nhất trong biện chứng. Kinh tế thị trường là mô thức thúc đẩy tăng trưởng, công bằng xã hội nhằm bảo đảm cho mọi thành viên được thụ hưởng thành quả tăng trưởng để không ngừng gia tăng năng lực và mở rộng cơ hội tham gia vào quá trình phát triển kinh tế thị trường trong sự gắn kết bao trùm, kết tụ động lực nội sinh bất tận, bảo đảm “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Thực tiễn kiểm định qua 40 năm đổi mới đã và đang khẳng định sự đúng đắn, giá trị đích thực và tương lai rộng mở của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nhằm hướng đến một xã hội phát triển bao trùm, toàn diện.

Thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong tiến trình đổi mới ở Việt Nam.

Sau 40 năm đổi mới đã giúp Việt Nam đạt những thành tựu kinh tế, xã hội to lớn, mang ý nghĩa lịch sử cực kỳ quan trọng trên con đường quá độ lên xã hội chủ nghĩa: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”9.

Thứ nhất, nền kinh tế thoát khỏi tình trạng trì trệ, khủng hoảng kéo dài; tăng trưởng mạnh mẽ, xóa đói, giảm nghèo hiệu quả, đời sống nhân dân được cải thiện nhanh và xã hội phát triển toàn diện

Nếu như trước đổi mới, GDP Việt Nam tăng trưởng chưa đầy 4%/năm10, thì giai đoạn sau đổi mới đến nay (1986 – 2024), GDP tăng trưởng bứt phá, bình quân hằng năm đạt hơn 6,5%11. Kéo theo quy mô GDP tăng 37 lần, từ khoảng 13 tỷ USD năm 198612 lên 476,3 tỷ USD năm 202413. Qua đó, Việt Nam không chỉ nhanh chóng thoát khỏi khủng hoảng, nghèo nàn để gia nhập vào nhóm nước có thu nhập trung bình, mà còn rút ngắn khoảng cách, thậm chí vượt qua thu nhập một số nước trong khu vực. Theo dữ liệu đối sánh của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), năm 1990, GDP bình quân đầu người của Thái Lan là 1.508 USD, tương ứng của Việt Nam 98 USD, khoảng cách lên tới 15,3 lần, đến năm 2022, mức chênh lệch được rút ngắn chỉ còn 1,8 lần (Thái Lan: 7.631 USD; Việt Nam: 4.163 USD). Đặc biệt, so với Philippines, năm 1990 GDP bình quân đầu người (715 USD) cao gấp 7,3 lần Việt Nam (98 USD), đến năm 2022 chúng ta đã vượt xa thu nhập của quốc gia này, với 4.163 USD so với 3.597 USD của họ14.

Tốc độ tăng trưởng nêu trên tuy chưa ngang bằng Trung Quốc trong cùng khoảng thời gian tương tự (tốc độ tăng trưởng GDP Trung Quốc bình quân hằng năm giai đoạn 1978-2017 đạt 9,5%, cao gấp 3,3 lần mức tăng trưởng trung bình toàn cầu thời kỳ này)15 và còn khoảng cách nhất định so với Hàn Quốc ở giai đoạn “cất cánh”16, nhưng cũng không thể phủ nhận thành quả mang dấu ấn “kỳ tích Việt Nam”, bởi chúng ta khởi đầu công cuộc đổi mới bên bờ vực sụp đổ vào giữa thập niên 1980, cùng với lộ trình đổi mới bị thử thách từ 03 cú sốc nặng nề: khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997; khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 và đại dịch thế kỷ COVID-19 năm 2020.

Không chỉ tăng trưởng dài hạn ấn tượng, “kỳ tích Việt Nam” còn được phản ánh qua thành tựu xóa đói, giảm nghèo – mang tầm vóc cả một cuộc cách mạng. Năm 1990, tỷ lệ nghèo trong cả nước chiếm tới gần 70%17, đến cuối năm 2024 giảm xuống chỉ còn 2,3% (theo chuẩn nghèo đa chiều)18. Theo đó, cộng đồng quốc tế đã phải tôn vinh trong thán phục trước kết quả Việt Nam là quốc gia duy nhất đạt được mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc về giảm một nửa số người nghèo trước 10 năm19. Kéo theo, động thái phân hóa giàu nghèo tham chiếu qua giải phổ hệ số GINI20 ở Việt Nam thay đổi gần như không đáng kể và đang duy trì trị số tương ứng của nước có phân phối thu nhập khá công bằng, từ 0,330 (năm 1993)21 lên 0,372 (năm 2024)22. Kết quả đáng kinh ngạc này thực sự đang phủ định xu hướng phân hóa giàu nghèo mang tính quy luật theo mô hình chữ U ngược được phát hiện bỡi Kuznets (1971)23. Đặc biệt, chỉ số phát triển con người (HDI)24 đã có sự tăng tiến nhanh chóng, từ 0,630 (năm 2012) lên 0,752 (năm 2024)25, đưa nước ta vào nhóm quốc gia phát triển con người ở mức cao. Những thành quả trên là sự minh định rõ ràng và đầy thuyết phục cho hình thái kinh tế tăng trưởng vì con người và tất cả cho mọi người – mô hình phát triển công bằng, toàn diện và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Thứ hai, chuyển từ nền kinh tế khép kín, bị bao vây, cấm vận sang nền kinh tế mở và hội nhập quốc tế sâu rộng, không ngừng gia tăng động lực phát triển trên cơ sở kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại.
Những thành tựu kinh tế – xã hội đạt được đã góp phần xác lập vị thế Việt Nam ngày càng vững chắc trong cục diện chiến lược ở khu vực và trên thế giới. Từ chỗ bị bao vây, cô lập, sau 40 năm đổi mới, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với toàn bộ 193 quốc gia Liên hợp quốc, xây dựng mạng lưới quan hệ đối tác chiến lược và chiến lược toàn diện với 23 quốc gia26; bao phủ thương mại tới hơn 220 nền kinh tế27. Trong đó, chúng ta đã ký kết và đang thực hiện 17 Hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương trải rộng khắp các châu lục với gần 60 nền kinh tế có tổng GDP chiếm gần 90% GDP toàn cầu28. Kinh tế đối ngoại theo đó, đã có bước phát triển vượt bậc, quy mô thương mại quốc tế tăng từ 18% GDP năm 198529 lên đến 165% GDP năm 202430, đưa Việt Nam vào nhóm các quốc gia có độ mở kinh tế cao trên thế giới. Đặc biệt quan trọng là, kể từ năm 2016, cán cân thương mại nước ta đã đảo ngược xu hướng từ nhập siêu sang xuất siêu, với xuất khẩu ròng năm 2024 ước đạt 24,9 tỷ USD31, đóng góp động lực tăng trưởng mạnh mẽ, bền vững cho nền kinh tế quốc nội.

Thứ ba, nền kinh tế ổn định trong và phục hồi mạnh mẽ sau đại dịch COVID-19 trên nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô và đổi mới sáng tạo, kết tụ năng lực nội sinh, mở ra triển vọng phát triển nhanh, bền vững và bao trùm.
Quá trình tái cơ cấu, đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với “ba đột phá chiến lược” được Đảng chủ trương từ năm 2011 đang chứng kiến động thái chuyển biến đầy triển vọng của nền kinh tế. Kinh tế vĩ mô đang vào quỹ đạo ổn định (bình quân chỉ số giá tiêu dùng – CPI giảm xuống lần lượt bình quân 3,15%/năm giai đoạn 2016 – 2020 và 2,97%/năm giai đoạn 2021-2024 so với 6,69%/năm giai đoạn 2011 – 2015)32 trên nền tảng kỷ luật tài khóa chặt chẽ, cán cân ngân sách nhà nước lành mạnh (bình quân bội chi ngân sách nhà nước 3,6% GDP/năm giai đoạn 2016-202033; 3,27%GDP giai đoạn 2021-202434, thấp hơn đáng kể so với mức bội chi rất cao của giai đoạn 2011 – 2015: 5,4% GDP)35. Đặc biệt, nợ công quốc gia đã giảm dần và sâu dưới trần của Quốc hội (60%GDP), từ 63,5% GDP năm 201636 xuống còn 43,1% GDP năm 202137 và 34%GDP năm 202438, bảo đảm khả năng duy trì trạng thái ổn định kinh tế vĩ mô bền vững trong dài hạn. Trên cơ sở đó, kể từ năm 2012 đến nay (loại trừ một cách khách quan dữ liệu tăng trưởng GDP của năm 2020 và 2021 do ảnh hưởng trực tiếp và năm 2023 do tác động trễ bởi đại dịch COVID-19), nền kinh tế nước ta đã đảo ngược xu hướng suy giảm tăng trưởng đầy thách thức trước đó (xem Hình). Thậm chí, trong giai đoạn 2016 – 2019, Việt Nam thuộc nhóm các quốc gia có tốc độ tăng trưởng hàng đầu thế giới38.

Hình: Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2010 – 2024

Nguồn: Tạp chí Kinh tế Việt Nam, Kinh tế 2021-2022: Việt Nam và Thế giới, NXB. Thông tin truyền thông, HN, 2022, tr.121; Cục Thống kê, Niên giám thống kê năm 2024, NXB. Thống Kê, HN, 2025, tr.240.

Hai động thái song hành và hỗ tương giữa ổn định vĩ mô và tăng trưởng GDP nêu trên là bằng chứng của một nền kinh tế đang chuyển trọng lực tăng trưởng từ  “rộng” sang “sâu”, từ “lượng” sang “lượng – chất”. Thật vậy, xét theo ba yếu tố đầu vào nền kinh tế, bao gồm vốn, lao động và năng suất các nhân tố tổng hợp – TFP (phản ánh chất lượng tăng trưởng) cho thấy, tỷ trọng đóng góp của TFP vào tốc độ tăng trưởng GDP nước ta đã cải thiện nhanh chóng thời gian qua, từ bình quân từ 34,75% giai đoạn 2011 – 2015 lên 42,76% giai đoạn 2016 – 202339. Tương ứng, chỉ số đổi mới sáng tạo quốc gia tăng từ vị trí 59 năm 2016 lên 44/132 nền kinh tế trong năm 202440.

Cho nên, không ngạc nhiên là sức “đề kháng” và khả năng chống chịu của nền kinh tế đã trở nên vững chắc. Năm 2020, trong bối cảnh thế giới bị tàn phá bởi đại dịch COVID-19, rơi vào tình trạng suy thoái trầm trọng (GDP toàn cầu: – 4%), Việt Nam là nước hiếm hoi tăng trưởng dương (2,87%)41. Năm 2021, nước ta là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi biến chủng Delta. Trong đó, trung tâm kinh tế Đông Nam Bộ hoàn toàn tê liệt, “đầu tàu” kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh suy thoái sâu (tăng trưởng GRDP: -6,78%)42, song nền kinh tế vẫn duy trì tăng trưởng dương (2,55%), tạo thế năng cho năm 2022 nhảy vọt lên 8,54% và hồi sinh mạnh mẽ trở lại trong năm 2024 (7,09%), sau sự suy giảm tất yếu bởi tác động trễ của đại dịch ở năm 2023 (5,05%)43.

Như vậy, động lực tăng trưởng của Việt Nam không chỉ dồn tụ vào các trung tâm kinh tế của đất nước, mà còn không ngừng được mở rộng và lan tỏa bao phủ khu vực ngoại vi, bằng chứng cộng sinh khẳng định thêm một cách thuyết phục về tính bao trùm và triển vọng phát triển bền vững của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Với những thành quả to lớn đã đạt được sau 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới ở nước ta, đã khẳng định một chân lý không thể đảo ngược: kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là hai cấu phần tích  hợp thành chỉnh thể thống nhất trong quan hệ biện chứng, cơ sở của “nội sinh” động lực phát triển bao trùm, toàn diện, không ngừng và không trần giới hạn. Vậy nên, tầm nhìn và quyết sách chiến lược của Đảng với lộ trình, mục tiêu đến năm 2045 trở thành nước công nghiệp phát triển, thu nhập cao gắn với “xã hội khá giả toàn diện” không chỉ là kỳ vọng trong viễn tượng mơ hồ, mà là khả dĩ và hiện thực./.

TS. Mai Chiếm Hiếu

Tài liệu tham khảo
1.Amartya Sen (1999), Development as Freedom, Oxfort, University Press.

2.Byung – Nak Song, Kinh tế Hàn Quốc đang trỗi dậy, NXB. Thống kê, HN, 2002.
3.CIEM, VIE, VERP và VCCI (2016), Từ nhà nước điều hành sang nhà nước kiến tạo phát triển, Nhà xuất bản Tri thức, HN.
4.Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2021), Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030, Hà Nội, 2021.
5.Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
6.Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ XIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021.
7.Đảng Cộng sản Việt Nam, Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021-2030, Hà Nội, 2021.
8.Nguyễn Trọng Hoài, Kinh tế phát triển, Nhà xuất bản Lao động, Thành phố Hồ Chí Minh, 2010.
9.Ngân hàng Thế giới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Việt Nam 2035: Hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ, Hà Nội, 2016.
10.Vũ Văn Phúc, Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Lý luận và thực tiễn, NXB. Chính trị Quốc gia, HN, 2017.
11.Lê Hữu Nghĩa, Chu Văn Cấp, Hoàng Chí Bảo, Lưu Đạt Thuyết, Những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam và Lào, NXB. Chính trị – Hành chính, HN, 2010.
12.Phùng Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Hiển, Nguyễn Viết Thông, Một số vấn đề lý luận – thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới, NXB. Chính trị quốc gia, HN, 2016.
13.Trần Văn Thọ, Cú sốc thời gian và kinh tế Việt Nam, NXB. Tri thức, HN, 2016.