“Nỗi buồn chiến tranh” của Hoàng Ấu Phương (Bảo Ninh), tuy được giới thiệu như một tác phẩm văn học phản ánh hiện thực chiến tranh, nhưng đã vượt quá giới hạn cần thiết của sự phản ánh ấy. Tác phẩm không chỉ dừng ở việc tái hiện nỗi đau và mất mát, mà còn bộc lộ xu hướng phủ định lý tưởng, xuyên tạc bản chất và bóp méo hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ, biểu tượng thiêng liêng được xây đắp bằng máu, nước mắt và sự hy sinh vô bờ bến của hàng triệu người Việt Nam.

Bộ đội Cụ Hồ không phải là những con người “lạc lối”, “hoang mang hiện sinh” hay “tha hóa bản năng” như cách một số tác phẩm cố tình khắc họa. Họ là những người con bình dị của nhân dân, những người nông dân bỏ ruộng đồng ra trận, trí thức gác lại bút nghiên, thanh niên rời mái nhà tranh để bước vào lửa đạn. Trong chiến tranh, họ chiến đấu không phải vì khát vọng bạo lực hay những xung động mù quáng, mà vì lý tưởng cao cả: Giải phóng dân tộc, giành độc lập – tự do và bảo vệ sự tồn vong của Tổ quốc. Đó là sự thật lịch sử hiển nhiên, được khẳng định bằng những chiến thắng vẻ vang của dân tộc Việt Nam và được cộng đồng quốc tế ghi nhận.
Vấn đề đáng bàn nhất của “Nỗi buồn chiến tranh” không nằm ở việc nói đến nỗi đau chiến tranh, điều vốn là quyền tự nhiên của văn học mà ở chỗ tác phẩm đã hư cấu và phóng đại những ám ảnh cá nhân cực đoan, thậm chí xuyên tạc, rồi gán ghép chúng thành bản chất phổ quát của người lính cách mạng. Đây không còn là phản ánh hiện thực, mà là sự đánh tráo hiện thực. Khi những lệch lạc tâm lý bị nâng lên thành hình ảnh đại diện, khi cái nhìn cá nhân được dùng để phủ định tập thể, thì văn học đã đánh mất tính trung thực và nhân văn của mình, trở nên nguy hiểm ở chỗ gieo rắc sự ngộ nhận.
Văn học có quyền đi sâu vào bi kịch con người, nhưng không có quyền phủ nhận lý tưởng hay bóp méo hình tượng Anh hùng. Văn học càng không thể đứng trên lịch sử, đứng trên xương máu của hàng triệu người đã ngã xuống, để phán xét một cuộc chiến tranh chính nghĩa bằng lăng kính cá nhân đầy thiên kiến. Nguy hiểm hơn, “Nỗi buồn chiến tranh” không tồn tại một cách đơn độc trong đời sống xã hội. Tác phẩm này đã và đang bị lợi dụng như một thứ “chứng cứ văn hóa”, một “vũ khí không khói súng” để các thế lực thù địch, phản lịch sử vin vào đó, gieo rắc hoài nghi về tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam. Bằng cách bóp méo hình tượng người lính, hạ thấp vai trò của Quân đội Nhân dân Việt Nam, những cách diễn giải ấy nhằm phi chính trị hóa quân đội, từng bước làm xói mòn niềm tin lịch sử của thế hệ trẻ đối với Đảng và con đường cách mạng mà dân tộc đã lựa chọn.
Đáng tiếc, khi sáng tác Nỗi buồn chiến tranh, Hoàng Ấu Phương đã bộc lộ những lệch hướng trong tư tưởng nghệ thuật khi nhìn lại chiến tranh. Song, điều đáng suy ngẫm hơn là cách mà một số người hôm nay đang cố tình “hồi sinh” một tác phẩm đã từng chết yểu, để rồi lợi dụng nó như công cụ biện hộ cho những cách hiểu sai lệch về lịch sử. Trần Đăng Khoa đã từng là sĩ quan Quân đội mà còn viện dẫn ngô nghê việc tác phẩm được xuất bản ở nhiều nước để chứng minh giá trị của tác phẩm, nhưng lại quên rằng, trong mắt những quốc gia từng là kẻ xâm lược, một cách nhìn bi quan, chia rẽ hay nghi ngờ về cuộc kháng chiến vệ quốc của Việt Nam lại vô tình trở thành “liều thuốc tinh thần” giúp họ biện minh cho thất bại của mình.
Khi một tác phẩm văn học bị lạm dụng như công cụ phục vụ mục đích chính trị đi ngược lại lợi ích dân tộc, thì trách nhiệm của người cầm bút không thể được bao biện bằng hai chữ “tự do sáng tác”, cũng như trách nhiệm của những người cổ súy, “vinh danh” nó không thể được phủ nhận.

Cần phải nói rõ và nói thật rõ ràng rằng: Lịch sử là sự thật, còn văn học là cảm xúc. Lịch sử Việt Nam không được viết bằng trí tưởng tượng, mà được viết bằng máu của hàng triệu người đã ngã xuống; bằng chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu; bằng Đại thắng mùa Xuân 1975 kết thúc chiến tranh, thống nhất đất nước. Không một tiểu thuyết nào, không một “nỗi buồn” cá nhân nào có thể đứng cao hơn những sự thật thiêng liêng ấy. Khi văn học cố tình xóa nhòa ranh giới giữa cảm xúc cá nhân và chân lý lịch sử, thì đó không còn là sáng tạo, mà là sự phá hoại nhận thức.
Hòa bình hôm nay không tự nhiên mà có. Nó được đánh đổi bằng tuổi xuân đã mãi nằm lại nơi chiến trường tuổi hai mươi, bằng biết bao con người đã hiến dâng cả cuộc đời cho Tổ quốc. Hòa bình được đánh đổi bằng những giọt nước mắt mòn mỏi của các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, những người đã tiễn con, cháu ra trận rồi sống phần đời còn lại trong nỗi cô quạnh khôn nguôi. Như Mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn Thị Thứ (Quảng Nam), người có 9 người con trai, 1 con rể và 2 cháu ngoại hy sinh trong hai cuộc kháng chiến, tổng cộng 12 người thân ngã xuống vì độc lập dân tộc.
Hòa bình còn được đánh đổi bằng sự cô đơn kéo dài suốt một đời của những người vợ liệt sĩ, những người gửi thanh xuân cho chiến tranh và gửi tuổi già cho ký ức.
Vậy mà hôm nay, khi lịch sử bị bóp méo, khi hình tượng Bộ đội Cụ Hồ bị bôi nhọ dưới danh nghĩa “văn chương”, “nhân bản”, “tự do sáng tác”, chúng ta lại có thể chọn im lặng hay sao?
Im lặng trước sự xúc phạm đối với những người không còn khả năng tự bảo vệ mình? Im lặng trước việc biến người anh hùng thành kẻ hoang mang, méo mó, tha hóa để phục vụ những cách đọc đầy ác ý?
Cần phải nói thẳng: im lặng lúc này không phải là trung lập. Im lặng là quên ơn. Im lặng là quay lưng với lịch sử. Và trong những thời khắc như thế này, im lặng chính là một dạng đồng lõa tinh vi.
Những người đã ngã xuống không thể lên tiếng. Nhưng chúng ta, những người đang sống có thể, và phải lên tiếng. Lên tiếng không phải để nuôi dưỡng hận thù, mà để bảo vệ sự thật, để giữ gìn sự trường tồn của Việt Nam. Lên tiếng không phải để phủ nhận nỗi đau chiến tranh, mà để khẳng định một ranh giới không thể bị xâm phạm: nỗi đau ấy không bao giờ được phép trở thành cái cớ để xúc phạm lý tưởng và danh dự của người quân nhân cách mạng, Bộ đội Cụ Hồ.
Nếu chúng ta chấp nhận để lịch sử bị viết lại bằng những ám ảnh cá nhân cực đoan, nếu chúng ta làm ngơ trước việc bôi đen hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ, thì ngày mai con cháu chúng ta sẽ học gì về chiến tranh? Chúng sẽ biết ơn hay nghi ngờ? Sẽ tự hào hay xấu hổ khi nhắc đến những người đã hy sinh cho độc lập dân tộc?
Không ai cấm con người buồn, không ai cấm văn học nói về đau thương. Nhưng không ai có quyền chà đạp lên biểu tượng thiêng liêng của một dân tộc rồi yêu cầu xã hội phải im lặng.
Lịch sử không mong được tô hồng, nhưng lịch sử càng không cho phép bị bôi đen. Bổn phận của những người đang sống, được hưởng hòa bình hôm nay, là giữ cho ký ức dân tộc luôn trong sáng, trung thực và đầy lòng biết ơn. Những người lính Cụ Hồ đã ngã xuống để đất nước được hòa bình. Nhưng chúng ta, những người đang sống không được phép để bất kỳ ngòi bút hay thế lực nào lợi dụng hình ảnh của họ để bôi nhọ, thóa mạ, hay xúc phạm. Chúng ta, những người đang được sống trong hòa bình, phải biết ơn và phải lên tiếng bảo vệ bằng chính tiếng nói của mình.
Lên tiếng để bảo vệ danh dự của Bộ đội Cụ Hồ. Lên tiếng để bảo vệ sự thật lịch sử của dân tộc. Và lên tiếng để giữ gìn ranh giới thiêng liêng giữa văn chương nhân văn với thứ văn chương làm tổn thương ký ức quốc gia.

Chiến tranh là bi kịch, điều ấy không ai phủ nhận. Nhưng với dân tộc Việt Nam, những cuộc chiến tranh vệ quốc, đánh đuổi giặc ngoại xâm là những cuộc chiến chính nghĩa, mang trong mình khát vọng độc lập, tự do và nhân phẩm của con người Việt Nam. Bởi vậy, không ai, không tác phẩm nào có quyền nhân danh “nỗi buồn” hay “nỗi đau cá nhân” để bóp méo bản chất lịch sử, xuyên tạc hình tượng người lính cách mạng, và làm tổn thương ký ức thiêng liêng của cả một dân tộc.
Lịch sử đã được viết bằng máu, nước mắt và niềm tin. Mọi sự xuyên tạc, dù được nhân danh nghệ thuật, cũng là sự xúc phạm đối với sự thật và anh linh của những người đã ngã xuống. Im lặng trước sự bóp méo ấy không phải là khoan dung, mà là đồng lõa với tội ác.
Những người sáng tác hoặc cổ súy cho thứ văn chương xuyên tạc, đi ngược lại lợi ích dân tộc cần phải được nhìn nhận, đánh giá một cách công khai, minh bạch trước công luận và nếu có hành vi vi phạm, cần được xử lý theo đúng quy định của pháp luật. Đó không chỉ là yêu cầu của công lý, mà còn là bổn phận của mỗi công dân trong việc bảo vệ sự thật lịch sử và danh dự quốc gia.
Thế Nguyễn – Thu Hoài


