Thứ Sáu, Tháng 12 19, 2025
* Email: bbt.dongnama@gmail.com *Tòa soạn: 0989011688 - 0768908888
spot_img

Khi “khai phóng” trở thành lớp vỏ cho sự xét lại lịch sử



ĐNA -

Không quá bất ngờ khi một trường đại học Mỹ như Fulbright chọn tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh làm tọa đàm học thuật, nhưng điều này lại gợi lên một nghịch lý. Trong tác phẩm này, bản chất của cuộc chiến tranh xâm lược dường như bị che phủ bởi lớp ngôn từ bịa đặt khiến hình ảnh người chiến sĩ Giải phóng quân hiện lên bạc nhược, dung tục thậm chí méo mó. Phải chăng chính là điều mà một trường đại học Mỹ như Fulbright mong muốn và chúng ta quá vô thức, đang để cho kẻ từng gây nên bi kịch, từ phi nghĩa chúng trở thành chính nghĩa.

Bảo Ninh, tác giả tuyết thuyết “Nỗi buồn chiến tranh”

Ngược dòng quá khứ, ngày 21/5/2019, nhà văn Hoàng Ấu Phương (Bảo Ninh) đã đến Trường Đại học Fulbright Việt Nam tham dự buổi tọa đàm về tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh”. Trùng hợp hay cố tình, tại ngôi trường này cũng đang trình chiếu bộ phim tài liệu “Chiến tranh Việt Nam” của Ken Burns và Lynn Novick, do Mỹ sản xuất. Trước đó, trong một buổi trao đổi liên quan đến bộ phim mà phía Mỹ mua bản quyền từ “Nỗi buồn chiến tranh”, Bảo Ninh từng phát biểu rằng đó là “một cuộc nội chiến”.

Điều này gợi lên một câu hỏi lớn: phải chăng tồn tại hai con người, hai vai trò nhưng chung một mục đích? Đó là Đàm Bích Thủy, Chủ tịch sáng lập Đại học Fulbright Việt Nam, và Bảo Ninh, nhà văn thuộc Hội Nhà văn Việt Nam.

Nhắc đến Đàm Bích Thủy, không thể tách khỏi câu chuyện về Đại học Fulbright Việt Nam (FUV), một mô hình giáo dục khai phóng theo chuẩn Mỹ, nhưng cũng gây nhiều tranh luận. Nhiều ý kiến lo ngại rằng qua các hoạt động giao lưu và chương trình học, có thể xuất hiện xu hướng “tẩy trắng lịch sử” hoặc đánh đồng bản chất cuộc chiến tranh Việt Nam.

Được biết, trước đây ở Liên Xô, học bổng Fulbright đã từng là mầm mống của sự sụp đổ Đảng Cộng sản Liên Xô. Năm 1958, dưới thời Nikita Sergeyevich Khrushchev làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, 17 người thuộc Đảng Cộng sản Liên Xô được cử đi sang Mỹ du học một năm bằng học bổng Fulbright. Trong số đó có 14 người là sĩ quan KGB, còn lại là làm công tác đảng trong đó có Alexander Yakovlev.

Theo học bổng Fulbright, A. Yakovlev theo học chương trình thực tập sinh tại Đại học Columbia (Hoa Kỳ) dưới sự hướng dẫn khoa học của Giáo sư Chính trị học Hoa Kỳ David Truman, một trong những người sáng lập học thuyết đa nguyên chính trị và là một chuyên gia chống cộng khét tiếng. Theo hồi ký của cựu Chủ tịch KGB V. Kryuchkov, A. Yakovlev được cơ quan tình báo Hoa Kỳ tuyển mộ trong thời gian đang là học viên của Viện hàn lâm khoa học xã hội sang Hoa Kỳ thực tập tại Đại học Columbia. Việc A. Yakovlev bị cơ quan tình báo nước ngoài tuyển mộ cũng được trung tướng Y. Pitovranov và cựu Chủ tịch KGB Viktor Chebrikov xác nhận.

Trùm tuyên giáo Yakolev và sự sụp đổ của nhà nước Liên Xô

Tại một buổi chia sẻ, bà Đàm Bích Thủy cho biết nhiều sinh viên Fulbright đã “rất xúc động, thậm chí bật khóc”, khi xem phim tài liệu “Chiến tranh Việt Nam” của Ken Burns và Lynn Novick. Bà ta nói rằng, “Chúng tôi chưa bao giờ biết người Mỹ phải chịu đựng nhiều như vậy. Trước đây, chúng tôi chỉ nghĩ người Việt Nam mới là bên chịu thiệt thòi.”

Phát biểu này đã gây ra nhiều tranh luận. Một số ý kiến cho rằng cách tiếp nhận như vậy có thể vô tình làm lu mờ bản chất cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ tại Việt Nam, khi người xem chỉ nhìn qua lăng kính cảm xúc của lính Mỹ. Tuy nhiên, dù sự đồng cảm là điều đáng trân trọng, sự thật lịch sử vẫn cần được đặt đúng vị trí: trong cuộc chiến ấy, người lính Mỹ là lực lượng xâm lược, còn nhân dân Việt Nam là nạn nhân và là người kháng chiến bảo vệ Tổ quốc.

Điều đáng lo ngại là, qua những phát ngôn và hoạt động của một số cá nhân, khái niệm “nội chiến” dần được đưa vào như một cách “xét lại lịch sử”. Nếu không cẩn trọng, thế hệ trẻ sẽ bị dẫn dắt đến chỗ hiểu sai bản chất của cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam, một cuộc chiến tranh chính nghĩa chống xâm lược, chứ không phải cuộc xung đột ý thức hệ giữa hai miền.

Lịch sử đã chứng minh, nỗi đau của nhân dân Việt Nam trong chiến tranh không thể so sánh với bất kỳ “nỗi đau” nào của kẻ xâm lược. Hậu quả của chất độc da cam, bom mìn còn sót lại, và những tổn thất về người và của đến nay vẫn hiện hữu. Vì vậy, mọi cách gọi khác đi đều là sự đánh tráo bản chất lịch sử.

Trong bối cảnh ấy, những phát biểu như của Bảo Ninh, “chúng tôi cùng ăn, cùng uống, cùng văn hóa… đó là một cuộc nội chiến”, mang tính nguy hiểm khi được lan truyền trong môi trường học thuật, đặc biệt là ở các trường như Fulbright, nơi đào tạo thế hệ trí thức trẻ.

Không ai phủ nhận quyền tự do sáng tạo hay học thuật, nhưng tự do không đồng nghĩa với việc xuyên tạc hoặc làm mờ ranh giới chính – tà, xâm lược – kháng chiến. Văn học có thể đa chiều, nhưng lịch sử thì chỉ có một sự thật: nhân dân Việt Nam đã chiến đấu và hy sinh để giành độc lập dân tộc.

Đây không còn là câu chuyện học thuật đơn thuần, mà là vấn đề bảo vệ nền tảng lịch sử và bản sắc dân tộc. Khi lịch sử bị bẻ cong, thế hệ trẻ sẽ mất phương hướng, và tương lai dân tộc sẽ phải trả giá.

Bảo Ninh và sinh viên Đại học Fullbright ngày 21/5/2019.

Bảo Ninh có quyền viết, Fulbright có quyền mời. Nhưng không ai có quyền nhân danh “nhân văn” để xóa nhòa tội ác chiến tranh hay đánh đồng kẻ xâm lược với người bị xâm lược. Trách nhiệm của các cơ sở giáo dục Việt Nam là truyền đạt sự thật lịch sử một cách khách quan, trung thực, và có trách nhiệm với dân tộc mình, trước khi hướng tới bất kỳ “chuẩn mực quốc tế” nào.

Lịch sử dân tộc là ký ức thiêng liêng, được viết bằng máu và nước mắt của hàng triệu con người. Bất kỳ nỗ lực nào nhằm làm mờ bản chất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cuộc chiến chính nghĩa giành độc lập, tự do cho dân tộc, đều là sự xúc phạm đối với quá khứ và là mối nguy cho tương lai.

Giáo dục, học thuật hay văn học đều cần tôn trọng sự thật lịch sử. Mọi diễn giải, dù dưới danh nghĩa “tự do tư tưởng” hay “góc nhìn nhân văn”, nếu đi đến chỗ đánh đồng chính – tà, xâm lược – tự vệ, thì đều vượt qua giới hạn của đạo đức và trách nhiệm công dân.

Lịch sử không chỉ là ký ức của dân tộc, mà còn là nền tảng để mỗi quốc gia định hình bản sắc và định hướng tương lai. Khi sự thật lịch sử bị bóp méo, không chỉ những trang quá khứ bị tổn thương, mà niềm tin và ý thức dân tộc của thế hệ trẻ cũng dần lung lay. Một khi giới trẻ không còn phân biệt được đâu là kẻ xâm lược, đâu là người bảo vệ Tổ quốc, thì ranh giới giữa chính nghĩa và phi nghĩa sẽ bị xóa nhòa.

Đó chính là nguy cơ sâu xa của “chủ nghĩa xét lại lịch sử”, khi những sai lầm, thậm chí tội ác, được khoác lên lớp áo “nhân văn” hay “học thuật”, khiến ký ức dân tộc bị đánh tráo bằng những câu chuyện cảm xúc nhưng thiếu sự thật. Và nếu chúng ta im lặng trước những diễn giải sai lệch ấy, thì sự im lặng đó sẽ trở thành một dạng đồng lõa nguy hiểm.

Nếu lịch sử bị bóp méo trong trường học, hậu quả không chỉ dừng ở nhận thức lệch lạc, mà còn dẫn đến sự thờ ơ với cội nguồn, sự nghi ngờ với truyền thống, và cuối cùng là sự lạc hướng của cả một thế hệ, khi dân tộc bị tước đi quyền tự kể câu chuyện của chính mình.

Giáo dục là nơi gieo mầm cho nhận thức và niềm tin của thế hệ tương lai. Nhưng khi những giá trị lệch lạc được đưa vào giảng đường, dù dưới danh nghĩa “tự do học thuật” hay “tư duy phản biện”, thì đó không còn là khai phóng, mà là sự đầu độc nhận thức tinh vi. Không thể gọi là khai phóng nếu sinh viên bị dẫn dắt đến chỗ cảm thông với kẻ xâm lược hơn là thấu hiểu nỗi đau của chính dân tộc mình. Một nền giáo dục chân chính không chỉ dạy con người biết nghĩ, mà còn phải dạy họ nghĩ đúng, dựa trên sự thật, lòng trung thực và tình yêu Tổ quốc.

Nếu lịch sử bị bóp méo trong trường học, hậu quả không chỉ dừng ở nhận thức lệch lạc, mà còn dẫn đến sự thờ ơ với cội nguồn, sự nghi ngờ với truyền thống, và cuối cùng là sự lạc hướng của cả một thế hệ, khi dân tộc bị tước đi quyền tự kể câu chuyện của chính mình.

Đã đến lúc xã hội, giới học thuật và cơ quan quản lý phải có tiếng nói rõ ràng, khách quan và có trách nhiệm để ngăn chặn mọi biểu hiện của chủ nghĩa xét lại lịch sử dưới lớp vỏ “giáo dục khai phóng”. Bởi khi giáo dục đi chệch khỏi sự thật, thế hệ trẻ sẽ đánh mất la bàn giá trị; và khi ấy, cái giá mà dân tộc phải trả sẽ không chỉ là sự hiểu lầm, mà là sự phai nhạt căn cước và tinh thần dân tộc.

Giữ gìn sự thật lịch sử trong giáo dục không phải là khép kín tư tưởng, mà là bảo vệ nền tảng đạo lý, niềm tự hào và linh hồn của dân tộc, những điều không thể vay mượn, và càng không thể để người khác viết thay.

Thế Nguyễn – Thu Hoài