Chủ Nhật, Tháng 12 21, 2025
* Email: bbt.dongnama@gmail.com *Tòa soạn: 0989011688 - 0768908888
spot_img

Toàn quốc kháng chiến – Bản anh hùng ca mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp



ĐNA -

Đêm 19/12/1946, tiếng súng kháng chiến vang lên trên khắp đất nước, mở đầu cuộc chiến đấu lâu dài và gian khổ của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã đứng lên bảo vệ nền độc lập non trẻ với tinh thần “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”.

Sau thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức ra đời, đánh dấu sự sụp đổ của chế độ thực dân phong kiến đã tồn tại hàng trăm năm. Tuy nhiên, chính quyền non trẻ khi ấy phải đối mặt với vô vàn thử thách. Ở trong nước, các thế lực phản động nổi dậy chống phá, nền kinh tế kiệt quệ sau chiến tranh, nạn đói năm 1945 cướp đi sinh mạng của hàng triệu người vẫn còn ám ảnh, hơn 90% dân số mù chữ, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Ở bên ngoài, nước ta lại bị bao vây bởi nhiều thế lực ngoại bang, đặc biệt là thực dân Pháp, đang tìm cách quay trở lại xâm lược.

Trong bối cảnh ấy, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương kiên trì con đường hòa bình, mong muốn giữ vững nền độc lập non trẻ, tránh cho nhân dân phải chịu thêm đau thương. Chính phủ ta đã ký Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946), thể hiện thiện chí nhân nhượng để duy trì hòa bình, tranh thủ thời gian củng cố lực lượng. Tuy nhiên, phía Pháp vẫn nuôi dã tâm chiếm lại Đông Dương. Thực dân Pháp đã bội ước, khiêu khích vũ trang, mở rộng chiếm đóng, gây hấn tại Hải Phòng, Hà Nội và nhiều địa phương khác. Tối hậu thư ngày 18/12/1946 của Pháp, đòi tước vũ khí lực lượng tự vệ và kiểm soát Thủ đô, là đòn thách thức trực diện đối với chủ quyền quốc gia.

Trước tình thế “không thể nhân nhượng thêm được nữa”, ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến. Lời kêu gọi ngắn gọn mà mạnh mẽ vang lên: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa! Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc…”

“Hỡi đồng bào toàn quốc! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, đó là lời thề của cả một dân tộc, là tiếng trống mở đầu cho cuộc kháng chiến vĩ đại kéo dài chín năm.

Đêm hôm đó, tiếng súng kháng chiến nổ vang tại Hà Nội, mở đầu cho cuộc chiến đấu anh dũng trên phạm vi cả nước. Ở Thủ đô, nhân dân cùng lực lượng Vệ quốc quân, Tự vệ chiến đấu dựng chiến lũy, đào hầm, chiến đấu từng ngôi nhà, từng góc phố. Dù vũ khí thô sơ, họ vẫn kiên cường bám trụ, gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề. Khẩu hiệu “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” trở thành biểu tượng bất diệt của tinh thần yêu nước Việt Nam.

Sau 60 ngày đêm chiến đấu oanh liệt ở Hà Nội, lực lượng ta rút ra vùng căn cứ an toàn để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Từ đây, nhân dân cả nước bước vào thời kỳ toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh, vừa chiến đấu, vừa xây dựng hậu phương, vừa củng cố lực lượng. Cuộc kháng chiến đã hun đúc tinh thần đoàn kết, niềm tin vào Đảng và Bác Hồ, giúp quân dân ta trưởng thành nhanh chóng về mọi mặt.

Trải qua chín năm kháng chiến gian khổ (1946–1954), nhân dân ta đã làm nên những chiến thắng vang dội, từ Việt Bắc – Thu Đông 1947, Biên Giới 1950, Hòa Bình, Tây Bắc, cho đến Điện Biên Phủ năm 1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Chiến thắng ấy khép lại chặng đường Toàn quốc kháng chiến đầy hy sinh nhưng vô cùng vẻ vang, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc: độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

Cuộc Toàn quốc kháng chiến là một bản hùng ca bất diệt trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Trong hoàn cảnh đất nước còn nghèo nàn, vũ khí thiếu thốn, nhưng với lòng yêu nước nồng nàn, niềm tin tuyệt đối vào Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã đoàn kết một lòng, kiên cường đứng lên bảo vệ nền độc lập vừa giành được. Cuộc kháng chiến ấy không chỉ giữ vững chủ quyền dân tộc, mà còn thể hiện sức mạnh vĩ đại của ý chí tự lực, tự cường Việt Nam.

Từ tiếng súng đêm 19/12/1946, dân tộc ta đã mở ra chín năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ mà oanh liệt, để rồi kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

Toàn quốc kháng chiến mãi mãi là biểu tượng sáng ngời của lòng yêu nước, của tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Lời kêu gọi thiêng liêng ấy không chỉ soi đường cho cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, mà còn đặt nền móng vững chắc cho nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, để ngọn lửa yêu nước ấy tiếp tục cháy sáng trong lòng mỗi thế hệ hôm nay và mai sau.

Thế Nguyễn