Thứ Năm, Tháng 1 1, 2026
* Email: bbt.dongnama@gmail.com *Tòa soạn: 0989011688 - 0768908888
spot_img

Văn hoá – Sức mạnh nội sinh cho phát triển bền vững:  Từ tầm nhìn Đại hội XIII đến thực tiễn Cố đô Huế



ĐNA -

Văn hoá không chỉ là hồn cốt dân tộc, mà còn là nguồn lực nội sinh, động lực đột phá cho phát triển bền vững. Từ những định hướng lớn tại Đại hội XIII của Đảng đến những bước chuyển mình mạnh mẽ ở Cố đô Huế, nơi văn hoá được xem là trụ cột trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội có thể thấy rõ vai trò của văn hoá trong hiện thực hoá khát vọng vươn lên. Bài viết sẽ phân tích cách Huế khai thác chiều sâu di sản để phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập và chuyển đổi số.

Văn hoá, trụ cột tinh thần trong chiến lược phát triển quốc gia
Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định một cách rõ ràng rằng văn hoá là trụ cột tinh thần, là nền tảng, mục tiêu và động lực phát triển quốc gia, đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế và xã hội. Tư duy này thể hiện bước chuyển căn bản trong nhận thức về vai trò của văn hoá: từ chỗ coi là lĩnh vực “mềm”, “gián tiếp” sang vị thế trung tâm, nơi hình thành sức mạnh nội sinh và bản lĩnh dân tộc. Văn hoá không chỉ là kho tàng di sản, lễ hội hay nghệ thuật, mà là toàn bộ những giá trị định hình nhân cách, lối sống, năng lực sáng tạo và khả năng thích ứng của con người Việt Nam trong thời đại mới.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn cầu hoá và công nghệ số đang làm thay đổi mạnh mẽ đời sống xã hội, văn hoá trở thành “lá chắn mềm” bảo vệ bản sắc và củng cố niềm tin dân tộc. Khi trí tuệ nhân tạo, mạng xã hội và kinh tế số chi phối hành vi, cảm xúc và tư duy của con người, thì chính nền tảng văn hoá, với hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hoá và chuẩn mực con người Việt Nam giúp chúng ta giữ vững căn tính, biết chọn lọc tinh hoa nhân loại mà không đánh mất mình. Văn hoá, vì thế, không chỉ là “cái còn lại” của lịch sử, mà còn là nguồn lực sáng tạo mới, là “chất keo” kết nối con người, thúc đẩy tinh thần đổi mới, khơi dậy khát vọng vươn lên.

Xây dựng và phát huy giá trị văn hoá Việt Nam cũng chính là quá trình nuôi dưỡng năng lực cạnh tranh quốc gia từ bên trong. Một nền kinh tế muốn phát triển bền vững cần có nền văn hoá định hướng, để phát triển không chỉ nhanh mà còn nhân văn, hài hoà, vì con người. Như Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh, phải “ngăn chặn sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội, phát huy các giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hoá Việt Nam”. Điều này đòi hỏi sự vào cuộc của toàn xã hội, từ hệ thống giáo dục, truyền thông, đến từng cộng đồng, gia đình nhằm khôi phục và củng cố “vốn xã hội” văn hoá đang bị thách thức bởi chủ nghĩa vật chất, sự thực dụng và đứt gãy giá trị.

Do đó, đầu tư cho văn hoá không chỉ là đầu tư cho các hoạt động nghệ thuật hay bảo tồn di sản, mà là đầu tư chiến lược cho con người và tương lai đất nước. Khi mỗi người dân thấm nhuần các giá trị trung thực, nhân ái, trách nhiệm, sáng tạo và yêu nước, những giá trị cốt lõi của dân tộc thì văn hoá không còn là khẩu hiệu, mà trở thành sức mạnh tinh thần dẫn dắt sự phát triển Việt Nam trong kỷ nguyên mới.

Đầu tư cho con người và môi trường văn hoá lành mạnh
Đầu tư cho con người và môi trường văn hoá lành mạnh được xem là nền tảng phát triển bền vững của đất nước. Trong giai đoạn 2020–2025, Việt Nam đã chứng kiến những chuyển biến rõ rệt trong tư duy và hành động về phát triển con người và môi trường văn hoá. Nếu trước đây, đầu tư cho văn hoá chủ yếu tập trung vào bảo tồn di sản và tổ chức các hoạt động phong trào, thì nay, trọng tâm đã chuyển mạnh sang phát triển con người, chủ thể sáng tạo và thụ hưởng văn hoá, đồng thời hình thành một môi trường sống nhân văn, lành mạnh, phản ánh chiều sâu bản sắc dân tộc trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá.

Trên phạm vi cả nước, hàng loạt chiến lược, đề án và chính sách lớn được ban hành, như Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hoá Việt Nam đến năm 2030, Chương trình chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hoá, thể thao và du lịch, Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam, hay Đề án “Xây dựng môi trường văn hoá cơ sở giai đoạn 2022–2026”. Những văn bản này không chỉ định hướng phát triển kinh tế văn hoá mà còn nhấn mạnh yếu tố then chốt: đầu tư cho con người, đặc biệt là thế hệ trẻ, nguồn lực sáng tạo của tương lai.

Ở nhiều địa phương, trong đó có Thừa Thiên Huế (nay là thành phố Huế), các thiết chế văn hoá được đầu tư cải thiện đáng kể, từ trung tâm văn hoá điện ảnh, thư viện, nhà văn hoá thiếu nhi đến các không gian sáng tạo, bảo tàng mở, tuyến phố đi bộ và khu sinh hoạt cộng đồng. Nhiều chương trình giáo dục thẩm mỹ, nghệ thuật cộng đồng, và lễ hội truyền thống được tổ chức trở lại với phương thức mới, kết hợp giữa di sản và công nghệ, giữa tính cộng đồng và tính chuyên nghiệp. Đó là minh chứng cho cách tiếp cận mới, văn hoá không chỉ để bảo tồn, mà còn để sống cùng, phát triển cùng.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đặt ra yêu cầu mang tính cốt lõi: “Xây dựng môi trường văn hoá thật sự trong sạch, lành mạnh, bảo đảm công bằng về cơ hội và thụ hưởng văn hoá.” Đây không chỉ là một khẩu hiệu mà là một định hướng nhân văn sâu sắc, hướng tới “công bằng văn hoá”, nơi mọi người dân, dù ở thành phố hay nông thôn, vùng sâu hay miền núi, đều có quyền được tiếp cận, sáng tạo và hưởng thụ giá trị tinh thần của dân tộc. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc thu hẹp “khoảng cách văn hoá” giữa các vùng miền, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, và hình thành bản lĩnh văn hoá Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế.

Song song với đó, việc đề cao vai trò của gia đình trong giáo dục, nuôi dưỡng thế hệ trẻ được xem là nền tảng quan trọng của chính sách phát triển con người. Gia đình không chỉ là nơi gìn giữ nếp sống, phong tục và chuẩn mực đạo đức, mà còn là “trường học đầu tiên” hình thành nhân cách, lối sống và thẩm mỹ cho mỗi cá nhân. Trong bối cảnh xã hội hiện đại với nhiều biến động, việc củng cố giá trị gia đình Việt Nam, giàu tình nghĩa, hiếu học, trọng đạo lý chính là điểm tựa bền vững để xây dựng con người Việt Nam toàn diện, nhân ái, sáng tạo và có trách nhiệm với cộng đồng.

Đầu tư cho con người và môi trường văn hoá vì thế không chỉ là một nhiệm vụ của ngành văn hoá – thể thao – du lịch, mà là chiến lược phát triển lâu dài của quốc gia. Một nền kinh tế mạnh chưa đủ nếu thiếu nền tảng tinh thần vững chắc; và một xã hội văn minh không thể tồn tại nếu con người không được nuôi dưỡng trong môi trường văn hoá trong sạch, nhân văn và sáng tạo. Chính vì vậy, trong giai đoạn 2025–2030, việc tiếp tục đầu tư, bồi dưỡng nguồn nhân lực văn hoá – nghệ thuật, nâng cao chất lượng giáo dục thẩm mỹ, khơi dậy tinh thần sáng tạo của thế hệ trẻ và mở rộng không gian tiếp cận văn hoá cho mọi người dân sẽ là con đường căn bản để Việt Nam phát triển bền vững, từ sức mạnh con người và văn hoá.

Môt số kết quả tiêu biểu và những chuyển động tích cực
Trong những năm gần đây, đời sống văn hóa Việt Nam đang chứng kiến nhiều chuyển động tích cực, thể hiện sự chuyển mình mạnh mẽ từ tư duy quản lý đến cách thức tổ chức và sáng tạo. Từ trung ương đến địa phương, các chương trình xây dựng chuẩn mực văn hóa công sở, văn hóa gia đình, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã được làm mới cả về nội dung và phương thức triển khai, hướng đến những giá trị thực chất, gắn với đời sống cộng đồng. Việc đưa văn hóa vào từng cơ quan, từng khu dân cư, từng gia đình đã góp phần hình thành lối ứng xử văn minh, tạo dựng môi trường sống lành mạnh và nâng cao chỉ số hạnh phúc của người dân.

Bên cạnh đó, công nghiệp văn hóa, một khái niệm từng khá mới mẻ ở Việt Nam nay đã bắt đầu hình thành rõ nét. Từ điện ảnh, âm nhạc, thời trang, mỹ thuật, cho đến ẩm thực, thủ công mỹ nghệ… đều được khuyến khích phát triển trên nền tảng sáng tạo, gắn kết với du lịch và thị trường tiêu dùng. Nhiều sản phẩm văn hóa đã vượt ra khỏi phạm vi địa phương để trở thành thương hiệu quốc gia, được bạn bè quốc tế biết đến và đánh giá cao. Đó không chỉ là câu chuyện của “Phở Hà Nội”, “Bún bò Huế” hay “Áo dài Việt Nam”, mà còn là hành trình khẳng định vị thế của văn hóa Việt trong bức tranh hội nhập toàn cầu.

Cùng với đó, chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa di sản đang mở ra bước tiến quan trọng trong quản lý và khai thác giá trị di sản. Nhiều bảo tàng, thư viện, di tích lịch sử đã có hồ sơ số hóa, trưng bày ảo, dữ liệu mở; khách tham quan có thể tiếp cận di sản qua mã QR, bản đồ số, công nghệ thực tế ảo (VR/AR). Điều này không chỉ giúp bảo tồn lâu dài mà còn mở ra những mô hình khai thác bền vững, kết hợp hài hòa giữa giáo dục, nghiên cứu và kinh tế sáng tạo đúng với xu thế của thời đại số.

Ở tầm địa phương, thành phố Huế, trung tâm văn hoá, di sản đặc thù của Việt Nam đã trở thành điểm sáng tiêu biểu. Với chiến lược “xanh – thông minh dựa trên di sản và du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn”, Huế đang chứng minh rằng văn hoá không chỉ là giá trị tinh thần mà còn là nguồn lực phát triển.

Trong những năm gần đây, thành phố Huế đã thể hiện rõ vai trò tiên phong trong việc phát huy “sức mạnh mềm” văn hóa, yếu tố được xem là nền tảng cho phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Hàng loạt đề án mang tầm chiến lược như “Huế – Kinh đô Áo dài Việt Nam”, “Huế – Kinh đô Ẩm thực”, hay “Huế – Thành phố Hoàng mai” không chỉ khơi dậy niềm tự hào văn hóa mà còn tạo động lực phát triển các ngành công nghiệp sáng tạo và du lịch trải nghiệm đặc trưng xứ Huế. Bên cạnh đó, các chương trình số hóa thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế, số hóa tư liệu Hán – Nôm làng xã toàn tỉnh giai đoạn 2020–2025 đã góp phần bảo tồn kho tàng di sản tư liệu quý giá, mở ra hướng đi mới trong việc ứng dụng công nghệ số vào bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.

Không chỉ dừng ở đó, mô hình “Festival bốn mùa” và chuỗi sự kiện văn hóa – thể thao – du lịch quanh năm đã đưa Huế trở thành điểm hẹn thường xuyên của du khách trong và ngoài nước. Từng mùa trong năm, Huế lại khoác lên mình một diện mạo mới, từ Festival các mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, Ngày hội áo dài cộng đồng, đến các chương trình nghệ thuật, triển lãm, giải thi  đấu thể thao quy mô quốc gia và quốc tế – tất cả tạo nên một “thành phố lễ hội” sống động, kết nối quá khứ với hiện tại, truyền thống với sáng tạo.

Đặc biệt, Huế đã và đang khẳng định vị thế địa phương tiên phong trong ngoại giao văn hóa và hội nhập quốc tế. Bằng việc tận dụng hiệu quả nguồn lực và hợp tác quốc tế, Huế không chỉ quảng bá bản sắc văn hóa Việt Nam ra thế giới mà còn thu hút các nguồn đầu tư, trao đổi học thuật và sáng tạo. Hội nghị các đô thị di sản thế giới khu vực châu Á – Thái Bình Dương (OWHC–AP) lần thứ 5, được tổ chức thành công tại Huế từ ngày 14–16/10/2025, là minh chứng thuyết phục cho năng lực và tầm vóc mới của thành phố. Với thông điệp “Xanh – Thông minh – Bền vững”, Huế đã cho thấy vai trò dẫn dắt trong mạng lưới các đô thị di sản toàn cầu, khi đặt Con người ở trung tâm mọi chính sách bảo tồn và phát triển – hướng đến một Huế vừa là đô thị di sản, vừa là đô thị sáng tạo và đáng sống bậc nhất Việt Nam.

Từ đó có thể thấy, Việt Nam nói chung và Huế nói riêng đang bước vào giai đoạn chuyển hóa mạnh mẽ của đời sống văn hóa, từ bảo tồn sang phát triển, từ giá trị truyền thống sang sáng tạo đương đại. Những nỗ lực này không chỉ khơi dậy niềm tự hào dân tộc mà còn góp phần định hình diện mạo mới của đất nước Việt Nam giàu bản sắc, năng động và hội nhập.

Những hạn chế và yêu cầu đổi mới
Dù lĩnh vực văn hoá đã có nhiều bước tiến quan trọng trong thời gian qua, song vẫn còn không ít điểm nghẽn và thách thức đặt ra yêu cầu phải đổi mới mạnh mẽ hơn. Trước hết là vấn đề thể chế và nguồn lực: cơ chế tài chính cho công tác bảo tồn và phát huy di sản còn chồng chéo, thiếu tính đồng bộ; khung chính sách về hợp tác công – tư (PPP) trong lĩnh vực văn hoá chưa được hoàn thiện, dẫn đến việc huy động các nguồn lực xã hội còn rất hạn chế. Nhiều thiết chế văn hoá, từ bảo tàng, thư viện, nhà văn hoá đến trung tâm triển lãm đang trong tình trạng thiếu kinh phí để duy trì hoạt động, chưa nói đến việc đổi mới nội dung, phương thức phục vụ. Tình trạng đầu tư dàn trải, thiếu trọng tâm, mà Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã thẳng thắn chỉ ra, vẫn còn phổ biến; nhiều công trình được đầu tư lớn nhưng hoạt động kém hiệu quả, thậm chí xuống cấp nhanh, do không gắn kết với nhu cầu văn hoá thực tế của cộng đồng dân cư.

Bên cạnh đó, khoảng cách trong thụ hưởng văn hoá giữa đô thị và nông thôn, giữa các vùng miền vẫn là vấn đề dai dẳng. Ở nhiều địa phương, phong trào văn hoá cơ sở còn mang nặng tính hình thức, chưa chạm tới chiều sâu tinh thần của người dân; nhiều hoạt động vẫn nặng về “chạy theo thành tích” hơn là tạo nên giá trị văn hoá bền vững. Công tác giáo dục thẩm mỹ, giáo dục di sản và phát triển văn hoá đọc trong nhà trường, vốn là nền tảng hình thành nhân cách, nuôi dưỡng tâm hồn con người Việt Nam còn mờ nhạt và thiếu tính hệ thống. Đặc biệt, nhân lực làm công tác văn hoá hiện nay đang thiếu hụt nghiêm trọng, nhất là trong các lĩnh vực đòi hỏi trình độ chuyên môn cao như trùng tu di tích, giám tuyển bảo tàng, kỹ sư công nghệ số hoá di sản hay chuyên gia sáng tạo văn hoá. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả bảo tồn, mà còn cản trở quá trình chuyển đổi số và hội nhập quốc tế của ngành văn hoá.

Trong lĩnh vực truyền thông, sự phát triển bùng nổ của môi trường mạng đang đặt ra những thách thức chưa từng có. Các thông tin sai lệch, độc hại, phản văn hoá, xuyên tạc lịch sử xuất hiện ngày càng nhiều, tác động tiêu cực đến nhận thức và lối sống, đặc biệt là của giới trẻ. Văn kiện Đảng đã nhấn mạnh yêu cầu “kiên quyết đấu tranh, loại bỏ sản phẩm xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục”, song để thực hiện hiệu quả, không thể chỉ dừng ở biện pháp quản lý hay chế tài hành chính. Quan trọng hơn, cần xây dựng một “lá chắn mềm”, đó là năng lực phản biện văn hoá số của công dân, khả năng nhận diện, chọn lọc và sáng tạo nội dung tích cực trong không gian mạng. Chỉ khi con người trở thành chủ thể văn hoá thực thụ, có tri thức và bản lĩnh, thì công cuộc xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mới có thể phát triển bền vững trong kỷ nguyên số.

Định hướng và giải pháp giai đoạn 2025–2030
Trên nền tảng tư tưởng của Đại hội XIII và thực tiễn các địa phương, có thể xác định bốn trụ cột giải pháp lớn cho giai đoạn tới:

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, xây dựng hệ giá trị quốc gia và môi trường văn hoá lành mạnh. Cần sớm ban hành Bộ chuẩn hệ giá trị Việt Nam thời kỳ mới – gắn với hệ giá trị gia đình, công dân, công sở và doanh nghiệp. Từ đó, đưa các tiêu chí này vào hệ thống đánh giá thi đua, tuyển chọn cán bộ, đánh giá tổ chức.

Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, tôn giáo trong bồi dưỡng nhân cách; đồng thời chống các biểu hiện mê tín, cực đoan, phi văn hoá. Đặc biệt, cần coi việc “xây dựng văn hoá công sở, văn hoá doanh nghiệp” là chỉ số năng lực cạnh tranh của địa phương.

Thứ hai, phát triển công nghiệp văn hoá và du lịch mũi nhọn. Đây là bước đi cụ thể để hiện thực hoá yêu cầu “phát huy sức mạnh mềm của văn hoá Việt Nam”. Cần có cơ chế hợp tác công tư (PPP), cơ chế tài chính hỗn hợp (blended finance) cho các dự án trùng tu, thiết chế văn hoá và dịch vụ sáng tạo; chính sách ưu đãi thuế cho doanh nghiệp đầu tư vào bảo tồn và khai thác di sản. Song song với đó, cần phải đẩy mạnh việc nghiên cứu và xây dựng các cụm công nghiệp văn hoá vùng – nơi hội tụ các ngành thời trang, ẩm thực, thủ công, nghệ thuật trình diễn, gắn với du lịch trải nghiệm và kinh tế đêm.

Thứ ba, đẩy mạnh chuyển đổi số và truyền thông hiện đại. Phát triển kho dữ liệu văn hoá quốc gia và địa phương (Cultural Data Hub); chuẩn hoá hồ sơ di sản, xây dựng bản đồ số di tích, triển khai xây dựng Mô hình thông tin công trình di sản (Heritage Building Infformation Modeling – Heritage BIM) trong trùng tu.

Mỗi di tích, bảo tàng cần trở thành “phygital space”, không gian vật lý kết hợp công nghệ số, mang lại trải nghiệm tương tác, kể chuyện di sản hấp dẫn. Đồng thời, nâng cấp hệ thống báo chí – truyền thông theo hướng chuyên nghiệp, nhân văn và hiện đại, tăng năng lực “đề kháng thông tin” của xã hội.

Thứ tư, phát triển con người và nguồn nhân lực văn hoá. Cần chiến lược đào tạo dài hạn cho đội ngũ cán bộ văn hoá, nghệ thuật, quản lý di sản, đặc biệt là lớp trẻ. Chương trình “Giáo dục di sản học đường” phải trở thành một cấu phần bắt buộc của giáo dục toàn diện. Đồng thời, mở học bổng, liên kết quốc tế đào tạo khoảng 1.000 chuyên gia trùng tu, giám tuyển, nghệ nhân số hóa, để trong 5–10 năm tới khắc phục cơ bản sự thiếu hụt nhân lực chất lượng cao trong ngành.

Huế, điểm sáng của mô hình “đô thị di sản sáng tạo”
Huế đang trở thành một minh chứng sinh động cho việc hiện thực hóa tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng,  nơi văn hóa, con người và di sản được đặt ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển. Từ một đô thị di sản vốn được định hình bởi bảo tồn, Huế đang chuyển mình mạnh mẽ để trở thành đô thị di sản sáng tạo, nơi mà di sản không chỉ được gìn giữ nguyên vẹn mà còn được tái sinh, thổi hồn vào đời sống đương đại thông qua các mô hình, sản phẩm văn hóa – kinh tế mới.

Những sáng kiến chiến lược như Đề án “Huế – Kinh đô Áo dài Việt Nam”, “Huế – Kinh đô Ẩm thực”, Festival Huế bốn mùa, hay chương trình chuyển đổi số toàn diện hệ thống di tích và bảo tàng đã khẳng định tầm nhìn và bản lĩnh của một thành phố dám đổi mới trong khuôn khổ bảo tồn. Thay vì chỉ “giữ gìn”, Huế chọn cách “kể lại” và “tái hiện” di sản bằng ngôn ngữ sáng tạo, từ việc tổ chức trình diễn áo dài di sản bên dòng Hương, phục dựng không gian ẩm thực cung đình đến số hóa tư liệu, châu bản, cổ vật và thiết lập các bảo tàng ảo phục vụ du khách toàn cầu. Đây không chỉ là hướng đi đúng, mà còn là bước đột phá trong việc biến di sản thành nguồn lực kinh tế, giáo dục và sáng tạo mới.

Đặc biệt, Huế đang tiên phong trong mô hình “sandbox di sản”, một “phòng thí nghiệm mở” cho các ý tưởng đổi mới trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Tại đây, các công nghệ hiện đại như quét 3D, thực tế ảo (VR), trí tuệ nhân tạo (AI), vật liệu thân thiện môi trường và kỹ thuật trùng tu tiên tiến được thử nghiệm trực tiếp trên các công trình, khu di tích và làng nghề. “Sandbox di sản” không chỉ giúp kiểm chứng và hoàn thiện công nghệ, mà còn mở ra môi trường hợp tác giữa các nhà khoa học, doanh nghiệp sáng tạo, kiến trúc sư và nghệ nhân, những người cùng chia sẻ niềm đam mê bảo tồn và sáng tạo văn hóa Việt.

Song song với đó, việc thành lập Quỹ Bảo tồn di sản Huế đã tạo ra cơ chế tài chính hỗn hợp, khuyến khích xã hội hóa bảo tồn. Quỹ không chỉ hỗ trợ tu bổ, tôn tạo di tích mà còn hướng đến việc đầu tư cho các dự án sáng tạo trên nền tảng di sản, từ sản xuất sản phẩm lưu niệm cao cấp, phim ảnh, âm nhạc đến các sự kiện văn hóa cộng đồng. Mô hình này đang thu hút sự tham gia của nhiều doanh nghiệp, tổ chức quốc tế và kiều bào, hình thành chuỗi liên kết giữa Nhà nước – cộng đồng – doanh nghiệp – nghệ nhân trong việc phát huy giá trị di sản gắn với phát triển bền vững.

Trên nền tảng đó, Huế đang từng bước hình thành cụm công nghiệp văn hóa đặc trưng với bốn trụ cột chính: Nghệ thuật truyền thống (Nhã nhạc, Ca Huế), Áo dài, Ẩm thực và Thủ công sáng tạo. Đây không chỉ là bốn di sản tiêu biểu, mà còn là bốn “thương hiệu” văn hóa của Huế, có khả năng lan tỏa mạnh mẽ ra khu vực và thế giới. Khi được tổ chức bài bản, cụm công nghiệp này sẽ tạo nên chuỗi giá trị văn hóa sáng tạo, giúp di sản vừa được bảo tồn, vừa sinh lợi, đồng thời tạo việc làm cho hàng ngàn lao động địa phương.

Một điểm nhấn khác là chính sách “Văn hóa học đường Huế”, hướng đến việc đưa di sản vào trường học, biến văn hóa trở thành hành trang sống cho thế hệ trẻ. Các chương trình giáo dục trải nghiệm như “Góc di sản” tại mỗi trường, các tiết học về áo dài, ca Huế, bài chòi, hay tham quan di tích đã giúp học sinh hiểu sâu hơn về cội nguồn, bồi dưỡng lòng tự hào và ý thức gìn giữ văn hóa dân tộc. Đây chính là nền tảng nhân lực cho tương lai di sản, nơi mỗi công dân trẻ Huế đều trở thành người kể chuyện văn hóa của quê hương mình.

Khi văn hóa được đưa vào từng lớp học, từng sản phẩm du lịch, từng công trình kiến trúc và từng nhịp sống của người dân, Huế không còn là “bảo tàng sống” của quá khứ, mà là thành phố sáng tạo từ di sản, nơi ký ức và hiện đại hòa quyện, nơi di sản trở thành nguồn lực tái tạo, nuôi dưỡng tinh thần, kinh tế và bản sắc của đô thị. Và trong hành trình ấy, Huế đang khẳng định vị thế của mình như một điểm sáng kiểu mẫu cho mô hình “đô thị di sản sáng tạo” của Việt Nam và khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

Văn hoá, nền tảng, động lực và mục tiêu phát triển
Nhìn lại 5 năm qua, có thể thấy tư tưởng “văn hoá soi đường cho quốc dân đi” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, nay đã trở thành đường lối xuyên suốt của Đảng trong thời kỳ mới.

Văn hoá không chỉ là di sản, mà là năng lượng nội sinh, là “sức mạnh mềm” của quốc gia, là nền tảng để phát triển con người Việt Nam toàn diện, hài hoà giữa truyền thống và hiện đại.

Thực tiễn của Huế cho thấy: khi văn hoá được đặt đúng vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển, nó sẽ kích hoạt toàn bộ hệ thống, từ giáo dục, du lịch, công nghiệp sáng tạo đến công nghệ và kinh tế xanh. Đó chính là con đường phát triển bền vững, vừa giữ hồn dân tộc, vừa mở ra tương lai hội nhập.

Đại hội XIII đã trao cho chúng ta tầm nhìn, khát vọng và định hướng. Giai đoạn 5 năm qua (2020-2025) đã cho thấy rõ, cách thức và kết quả thực hiện  của mỗi địa phương, mỗi người dân sẽ khẳng định mức độ thành công của họ trong vai trò chủ thể sáng tạo văn hoá. Khi mỗi người Việt Nam thực sự trở thành chủ thể sáng tạo văn hóa thì “sức mạnh con người Việt Nam” sẽ thật sự trở thành động lực lớn nhất, mạnh mẽ nhất để đất nước vươn lên trong kỷ nguyên mới./.

TS. Phan Thanh Hải