Thời gian qua, chất thải nhựa đang là vấn đề nhận được sự quan tâm của cả thế giới do những tác động đến môi trường. Ước tính tổng lượng chất thải nhựa phát sinh khoảng 242 triệu tấn, chiếm 12% lượng CTR đô thị toàn cầu. Không riêng Việt Nam, lượng chất thải rắn (CTR) trên thế giới gia tăng liên tục
Một loại chất thải đặc thù khác là chất thải điện tử với số lượng phát sinh trên toàn cầu ngày càng tăng. Báo cáo “Giám sát rác thải điện tử toàn cầu năm 2020” được Liên hợp quốc công bố vào tháng 7/2020 cho biết, trong năm 2019, trên toàn thế giới có tổng cộng 53,6 triệu tấn rác thải điện tử, tăng 21% so với 5 năm trước đây.
Trong đó, châu Á là nơi tạo ra nhiều nhất với khoảng 24,9 triệu tấn, tiếp đến là khu vực châu Mỹ 13,1 triệu tấn và châu Âu 12 triệu tấn. Châu Phi và châu Đại Dương tạo ra lần lượt là 2,9 và 0,7 triệu tấn. Tại Việt Nam, theo số liệu thống kê từ Viện Khoa học và Công nghệ môi trường, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, năm 2010 nước ta có khoảng hơn 3,77 triệu thiết bị điện và điện tử gia dụng bị thải ra với trọng lượng ước tính khoảng 113 nghìn tấn.
Với sự gia tăng dân số, kinh tế và quá trình đô thị hóa, lượng rác thải rắn phát sinh đang gia tăng nhanh chóng trên thế giới. Nhưng trong những năm gần đây, tư duy về quản lý chất thải đã thay đổi, thay vì tiêu hủy thì CTR được quản lý, thậm chí được coi là tài nguyên, được nghiên cứu khai thác làm nguyên liệu tái chế, tái sử dụng trong các ngành công nghiệp.
Các mô hình quản lý CTR trên thế giới
Mỗi quốc gia có một cách nghiên cứu và áp dụng quy trình xử lý chất thải rắn khác nhau. Nhưng nhìn chung đều đem lại tín hiệu tích cực để không chỉ Việt Nam mà các nước khác trên thế giới có thể học hỏi.
Thụy Điển
Quốc gia này đã sử dụng 52% tổng khối lượng CTR thu gom được để sản xuất nhiệt và điện; 42% để tái chế và chỉ có 1% lượng CTR bị chôn lấp. 50% lượng điện năng tiêu thụ của đất nước này đến từ năng lượng tái tạo. Quy trình phân loại CTR một cách khoa học khi mỗi gia đình đều có đến 6-7 loại thùng rác phân loại trong nhà để đáp ứng hiệu quả cho “nhu cầu về rác” của các nhà máy điện.
Thậm chí, do “nguyên liệu rác” không đủ, Thụy Điển còn nhập khẩu rác từ các quốc gia lân cận, vừa tận dụng được nguồn tài nguyên rác, vừa thu được một khoản phí thu gom CTR từ các quốc gia đó. Xử lý CTR được coi là một ngành kinh tế của Thụy Điển với khoảng 100 doanh nghiệp nhà nước và tư nhân tham gia. Cùng với đó, chính sách về tái sử dụng toàn quốc được tiến hành rất đồng bộ, chặt chẽ, đồng thời ý thức bảo vệ môi trường của người dân Thụy Điển được đánh giá rất cao.
Nhật Bản
Đóng góp vào thành công trong hệ thống quản lý, xử lý CTR của Nhật Bản phải kể đến chính sách phân loại rác ngay từ đầu và áp dụng công nghệ xử lý, tái chế rác hiện đại. Theo đó, rác được phân loại thành rác cháy được, không cháy được, vô cơ không tái chế được và rác tái tạo được, nguy hại, cồng kềnh.
Trên mỗi thùng rác đều dán hình ảnh minh họa cho biết thùng rác đó được phép bỏ loại rác nào, vì thế hầu hết các sản phẩm của Nhật Bản đều có hình minh họa thùng rác trên bao bì. Các hộ gia đình ở Nhật đều được phát bảng hướng dẫn phân loại rác chi tiết, trong đó, rác thải từ nhà bếp (chiếm khối lượng nhiều nhất) sẽ được thu gom theo các ngày quy định trong tuần (2-3 lần/tuần).
Các loại rác khác sẽ được đóng vào túi, mỗi túi đều ghi tên của các hộ gia đình. Nếu sau khi kiểm tra, túi rác của hộ gia đình nào chưa phân loại đúng sẽ bị trả lại, sau đó, sẽ được nhắc nhở thêm về cách phân loại rác. Các loại túi nhựa, bao bì sẽ được các hộ rửa sạch, treo lên cho khô ráo và cho vào túi mang đến các điểm thu gom.
Ở vùng nông thôn Nhật Bản, khi vứt rác mọi người phải kiểm tra xem hôm nay loại rác nào sẽ được phép vứt. Vào các ngày trong tuần sẽ có quy định rõ loại nào sẽ được phép vứt. Tuy nhiên, tùy vào từng địa phương sẽ có lịch vứt rác và cách phân loại rác khác nhau. Khi vứt rác, đầu tiên là phải bỏ rác vào bao, trước ngày thu gom rác phải mang bao rác ra để ở nơi đã được quy định. Ngoài ra, để ngăn ngừa chim hoặc những con vật khác sẽ bới lục thùng rác, có một số vùng nông thôn phải dùng lưới chuyên dụng để trùm lên các bao rác.
Nhật Bản áp dụng phương pháp “công nghệ đốt hóa lỏng tầng sôi” là chủ yếu để xử lý rác thải sinh hoạt. Rác không được đốt trực tiếp vì dễ phát sinh ra các khí độc gây hại đến bầu không khí mà được vùi vào một lớp cát, sau đó sử dụng lưu lượng không khí trong quá trình nung lò và một số hóa chất khác để tiêu hủy.
Cụ thể, khi cho rác vào buồng đốt, luồng không khí được nung từ dưới đáy buồng sẽ thổi lên, đẩy những phần rác chưa cháy hết đi lên, sau đó lại quay ngược trở lại phía dưới để đốt thêm một lần nữa. Nhiệt độ của buồng đốt không yêu cầu quá cao, chỉ cần đạt khoảng 800oC nên lượng khí thải độc hại như NO hay SO2 sẽ ít hơn nhiều.
Những năm gần đây, hơn 70% CTR của Nhật Bản được đốt để sản xuất điện, phần còn lại để tái chế và chỉ một lượng nhỏ CTR ở đô thị được đưa đến các bãi rác. Nhật Bản cũng tìm cách tận dụng các bãi rác một cách hiệu quả bằng cách tập kết CTR vào những bãi rác khép kín trên vịnh Tokyo, dần dần, các bãi rác này biến thành các cụm đảo nhân tạo. Các cụm đảo này được phủ xanh và trở thành cánh rừng có tên gọi Sea Forest, có tác dụng như “máy điều hòa nhiệt độ thiên nhiên” khổng lồ làm mát không khí biển thổi vào Tokyo.
Hàn Quốc
Ở Hàn Quốc, chất thải được quản lý theo hệ thống kép. Chính quyền địa phương chịu trách nhiệm xử lý chất thải sinh hoạt cuối cùng, trong khi đó, người thải chất thải công nghiệp chịu trách nhiệm xử lý cuối cùng. Luật quản lý chất thải của Hàn Quốc đưa ra một mức biểu giá cụ thể được áp dụng đối với những loại CTR có kích cỡ lớn. Theo đó, người dân Hàn Quốc phải trả phí cho việc xử lý những loại CTR cồng kềnh như: Đồ nội thất, đồ dùng thiết bị điện, những thứ không đựng vừa túi ni-lông…,
Các loại túi ni lông dùng để đựng CTR cũng được phân loại theo địa phương và mục đích. Các túi đựng chất thải riêng biệt được sử dụng khi các hộ gia đình xử lý chất thải này (gửi đến các cơ sở đốt rác hoặc chôn lấp). Các loại rác thải lớn được yêu cầu phải mua nhãn dán tại các cơ quan quản lý ở địa phương, sau đó được gắn vào vật phẩm trước khi vứt bỏ, hoặc những mặt hàng lớn có thể được giao cho các đại lý thu gom chất thải chuyên dụng.
Về xử lý, rác hữu cơ nhà bếp một phần được sử dụng làm giá thể nuôi trồng nấm thực phẩm, phần lớn hơn được chôn lấp theo công nghệ hiện đại, liên hoàn khép kín để thu hồi khí bioga cung cấp cho phát điện. Sau khi rác tại hố chôn phân huỷ hết sẽ tiến hành khai thác mùn ở bãi chôn làm phân bón. Không chỉ dừng lại đó, Chính phủ Hàn Quốc còn tiếp tục xây dựng công viên với chủ đề môi trường trên chính bãi rác này nhằm sử dụng hiệu quả quỹ đất trống bằng cách xây dựng khu vực vui chơi giải trí, thể thao, khu sinh thái, khu hoạt động môi trường phục vụ sinh hoạt cho cộng đồng.
Trẻ em Hàn Quốc được gia đình và nhà trường giáo dục từ nhỏ về “văn hóa đổ rác” thông qua cách nhận biết các chất liệu, thu gom, phân loại rác và ý thức để rác đúng nơi, đúng chỗ. Màu sắc của túi đựng rác ở mỗi địa phương cũng khác nhau… Từ năm 1993, Hệ thống hoàn trả tiền đặt cọc đã được thông qua để thúc đẩy việc thu gom và tái sử dụng các loại chai lọ đã qua sử dụng. Việc thu gom rác thải sinh hoạt được quy định theo giờ và ngày cụ thể. Hệ thống phí xử lý chất thải dựa trên khối lượng (VBWF) được Chính phủ Hàn Quốc triển khai năm 1995 nhằm giảm phát sinh chất thải và khuyến khích tái chế.
Bộ Môi trường Hàn Quốc (MOE) đã thúc đẩy chính sách chống lãng phí năng lượng để tăng tỷ lệ tự cung, tự cấp nhằm giảm chi phí xử lý chất thải thông qua đốt rác và chôn lấp. Để tạo ra điện, nhiên liệu và sưởi ấm, khí thải, phế liệu gỗ, chất thải gia đình và các chất thải khác được chuyển đổi thành năng lượng. Sản xuất năng lượng thông qua chất thải rẻ hơn 10% so với năng lượng mặt trời và rẻ hơn 66% so với năng lượng gió. Năm 2012, chỉ có 3,18% năng lượng mới và tái tạo được sản xuất, nhưng Chính phủ Hàn Quốc hy vọng sẽ tăng tỷ lệ này lên 20% vào năm 2050. Các công nghệ biến chất thải thành năng lượng có thể được chia thành ba nhóm chính dựa trên quá trình chuyển đổi được sử dụng gồm nhiệt hóa học, hóa lý và sinh hóa. Bioethanol được sản xuất từ chất thải thông qua quá trình lên men cũng có thể được sử dụng để sản xuất năng lượng.
Singapore
Hiện nay, môi trường của Singapore được coi là sạch và xanh nhất thế giới dù đã được đô thị hóa 100% và đã từng trải qua giai đoạn bị ô nhiễm nghiêm trọng khi quốc gia mới thành lập. Chính phủ nước này đã áp dụng một cách cứng rắn những hình phạt nghiêm khắc để nâng cao ý thức người dân về bảo vệ môi trường và thu gom, phân loại, xử lý CTR đúng nơi quy định. Singapore cũng sử dụng công nghệ đốt rác CFB để đốt được số lượng CTR nhiều nhất nhằm thu năng lượng chạy các tuabin điện.
Các chất thải như bụi, khói của quá trình đốt được xử lý bằng hệ thống lọc, trước khi ra ống khói, không khí đã được làm sạch; tro có máy tách kim loại theo nguyên lý nam châm điện trước khi chở đem chôn.
Ngoài ra, các bãi chôn lấp CTR của Singapore được lựa chọn là nơi có tầng sét tự nhiên, hoặc xử lý nhân tạo để có tầng sét nhằm tránh nước rỉ từ bãi chôn thấm ra gây ô nhiễm nguồn nước ngầm. Một hệ thống ống dẫn nước từ bãi rác được bố trí dưới đáy hố rác để dẫn nước tiết ra về nhà máy để xử lý. Tại đây, một hệ thống công nghệ của Đức xử lý tổng hợp bằng các phương pháp hóa – lý – cơ học với năng suất 700m3/h để có được nước sạch tuyệt đối trước khi thải ra môi trường tự nhiên.
Đài Loan
Tại Đài Loan, nhiều khu vực dân cư đã lắp camera nhằm đảm bảo các hộ dân thực hiện đúng quy trình phân loại rác thải. Những người vi phạm lần đầu sẽ được nhắc nhở bằng thông báo, nếu tái diễn thì họ sẽ bị phạt. Chính phủ cũng khuyến khích người dân tố cáo những hành vi vi phạm khi tặng 50% phí phạt cho người tố giác.
Ở đây, mọi loại rác đều phải phân thành ba loại: Một túi để đựng rác có thể tái chế (giấy vụn, báo cũ, chai nhựa, lọ thủy tinh…); một túi là những rác không tái chế và một túi là thức ăn thừa, hay còn gọi là rác nhà bếp.
Nếu hộp cơm còn dầu mỡ thì phải dùng nước rửa chén rửa sạch, sau đó để khô rồi mới cho vào túi rác. Rác thải được các hộ gia đình phân loại thành các loại riêng, hàng ngày vào khung giờ cố định sẽ có 2 xe rác đi cùng nhau đến các điểm ở khu dân cư để thu gom rác.
Xe rác thường có dòng chữ “Không phân loại rác, không được vứt rác”. Khi xe rác đến, túi rác tái chế sẽ được đưa tận tay cho nhân viên vệ sinh, rác không tái chế có thể trực tiếp vứt vào xe, còn xô thức ăn thừa thì đổ vào thùng đựng rác nhà bếp phía sau xe rác.
Một yếu tố nữa góp phần làm nên thành công của ngành tái chế rác tại Đài Loan là sự hỗ trợ của những nhà sản xuất, hoặc kinh doanh sản phẩm tái chế như các công ty nước ngọt có sử dụng nguyên liệu nhựa tái chế PET để đóng chai.
Ngoài ra, Đài Loan còn sử dụng rác thải để đốt phát điện.Với công nghệ phân hủy kỵ khí phù hợp, chất thải thực phẩm tạo ra khoảng 33 KWh điện mỗi năm. Lượng điện năng này chiếm hơn 15% điện năng có được từ năng lượng hạt nhân. Chi phí cho mỗi KWh điện này thấp hơn so với điện nặng từ gió và chi phí lắp đặt rẻ hơn cả năng lượng gió và mặt trời, thời gian hoàn vốn ngắn từ ba đến sáu năm.
Các nước EU và Bắc Mỹ
Ts. Nguyễn Thị Đông, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam cho biết, 15 năm trước, các quốc gia thuộc EU đã nhận thấy tác hại của công nghệ xử lý rác thải bằng chôn lấp, ngay cả với công nghệ chôn lấp tiên tiến thì các bãi rác tập trung vẫn chiếm dụng diện tích đất đai lớn và tiềm ẩn rủi ro gây ô nhiễm.
Thay vào đó, công nghiệp môi trường tại EU phát triển các công nghệ cho phép tái chế, tái sử dụng chất thải, đưa chúng trở thành nguyên liệu, sản phẩm có giá trị kinh tế. Ts. Nguyễn Thị Đông đã đưa ra dẫn chứng, năm 2018 công nghiệp xử lý chất thải rắn ở EU28 đã đạt được tỷ lệ tái chế 48% tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt, tỷ lệ rác được xử lý để chuyển hóa thành năng lượng đạt 29%, tỷ lệ rác chôn lấp chỉ còn 23%.
Theo Ts. Nguyễn Thị Đông hiện có 04 xu hướng lớn của ngành công nghiệp môi trường tại các quốc gia EU và Bắc Mỹ: Xu hướng tái chế chất thải trong công nghiệp xử lý chất thải rắn ở Mỹ và EU; Các công nghệ màng lọc, màng xử lý nước ngày càng phát triển trong ngành công nghiệp lọc nước và công nghiệp xử lý nước thải; Xu hướng ứng dụng sâu công nghệ thông tin và tự động hóa trong vận hành và quản lý các hệ thống xử lý chất thải; Xu hướng cá thể hóa công nghệ để thích ứng với nhu cầu cụ thể của khách hàng.
Tại Châu Âu và Mỹ, tỷ lệ xử lý nước thải ở cấp quy mô lớn như đô thị, khu công nghiệp đã rất cao, nhu cầu thị trường đối với các hệ thống sản xuất nước sạch và xử lý nước thải quy mô lớn đã thu hẹp dần. Vì vậy, các doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp môi trường ở EU đang hướng đến các tập khách hàng chuyên biệt hơn như khách hàng đơn lẻ là các nhà máy, khu đô thị, bệnh viện, trường học, các trung tâm thương mại hay các tòa nhà lớn khác hay thậm chí có các công nghệ tiếp cận các khách hàng hộ gia đình đơn lẻ có yêu cầu cao về sử dụng nước sạch.
Bài học cho Việt Nam
Từ kinh nghiệm xử lý CTR của các quốc gia nêu trên có thể thấy, hiệu quả của các biện pháp xử lý CTR đều bắt nguồn từ việc tuân thủ một cách nghiêm ngặt các quy định về phân loại rác. Đó là điều mà Việt Nam hiện nay đang còn hạn chế do chưa có các quy định cụ thể, nghiêm ngặt dành cho việc phân loại từ các hộ gia đình đến các cơ sở, doanh nghiệp ở tất cả các ngành kinh tế. Thêm nữa, để đạt được thành công trong việc quản lý, xử lý rác thải như các quốc gia nêu trên, yêu cầu rất lớn về nguồn lực và công nghệ. Do vậy, cần đẩy mạnh hơn nữa các chính sách hỗ trợ kêu gọi các nguồn vốn xã hội hóa, tập trung đầu tư vào lĩnh vực quản lý, xử lý CTR, nhằm giải quyết dứt điểm vấn đề CTR với những tác động xấu đến môi trường vốn tồn tại lâu nay.
Lê Hoàng