Thứ Sáu, Tháng 10 10, 2025
* Email: bbt.dongnama@gmail.com *Tòa soạn: 0989011688 - 0768908888
spot_img

Ảnh hưởng của quá trình biến đổi cơ cấu xã hội dân số đối với mục tiêu phát triển bền vững



ĐNA -

Dân số là nguồn lực then chốt thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Con người vừa là chủ thể quyết định sự tồn tại, vừa là khách thể thụ hưởng thành quả phát triển, do đó mọi kế hoạch phát triển đều gắn liền với yếu tố dân số. Hiện nay, biến đổi cơ cấu xã hội dân số đang đặt ra nhiều thách thức, đòi hỏi giải pháp kịp thời để biến dân số thành động lực cho phát triển bền vững. Tham luận này tập trung phân tích tác động của biến đổi cơ cấu xã hội – dân số đến tiến trình phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay.

Bác sĩ khám bệnh cho người cao tuổi ở vùng Tây Nguyên – minh họa nhu cầu cấp thiết về y tế lão khoa và hệ thống chăm sóc chưa được đáp ứng đầy đủ.

Từ những năm 1980, khái niệm “phát triển bền vững” được các nhà nghiên cứu nhấn mạnh như sau: “Sự phát triển đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai.” Theo đó, phát triển bền vững phải bảo đảm đồng thời ba trụ cột: kinh tế, xã hội và môi trường. Về kinh tế, cần đạt tăng trưởng nhanh, thu nhập bình quân đầu người và GDP liên tục tăng qua các năm. Về xã hội, phải giải quyết bất công, thu hẹp chênh lệch trong phân phối thu nhập, bảo đảm bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực phát triển; chỉ số phát triển con người (HDI) không ngừng cải thiện, phản ánh xu hướng nâng cao quyền con người và bình đẳng xã hội. Về môi trường, phải duy trì sự bền vững, xây dựng không gian sống xanh, sạch, an toàn và lành mạnh cho con người.

Quá trình biến đổi xã hội được hiểu là sự thay đổi trong cấu trúc của một hệ thống xã hội, kéo theo những biến đổi về khuôn mẫu hành vi, quan hệ, thiết chế và các hệ thống phân tầng xã hội theo thời gian. Hiện nay, chúng ta đang chứng kiến những biến đổi sâu rộng về kinh tế – xã hội, bao gồm: cơ cấu xã hội, hệ thống phân tầng, phương thức giao tiếp công cộng, cơ cấu dân số và hệ thống giá trị xã hội. Những biến đổi này làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp, đặt ra thách thức trong quản lý nhằm bảo đảm an sinh, nâng cao chất lượng cuộc sống và hướng tới phát triển bền vững.

Quá trình biến đổi cơ cấu xã hội – dân số có thể được lý giải qua lý thuyết quá độ dân số. Quá độ dân số được hiểu là tình trạng trong đó mức sinh và mức tử vong, hoặc ít nhất một trong hai yếu tố, rời khỏi xu hướng truyền thống. Nói cách khác, đây là quá trình chuyển đổi cơ cấu dân số từ mức sinh và tử vong đều cao sang mức sinh và tử vong thấp dưới tác động của công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Lý thuyết này được xây dựng dựa trên thực tiễn các nước Tây Âu khi bước vào thời kỳ công nghiệp hóa gắn với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Từ thực tế đó, các nhà khoa học đã khái quát thành học thuyết giải thích sự phát triển dân số, gọi là “thuyết quá độ dân số”. Theo lý thuyết này, sự phát triển dân số diễn ra qua ba giai đoạn: tiền quá độ, quá độ và hậu quá độ. Quá trình này xuất hiện ở hầu hết các quốc gia, song khác nhau về thời gian và đặc điểm cụ thể.

Người cao tuổi tham gia hoạt động thể chất ngoài trời, thể hiện mong muốn nâng cao chất lượng sống và cần sự hỗ trợ toàn diện từ hệ thống xã hội.

Biến đổi cơ cấu xã hội dân số ảnh hưởng đến phát triển bền vững.
Biến đổi cơ cấu xã hội – dân số là một vấn đề mới nổi bật trong bức tranh các vấn đề xã hội hiện nay. Thực tiễn cho thấy, dân số là nhân tố then chốt, có vai trò quyết định đối với mọi quá trình phát triển. Nói cách khác, không một quốc gia nào có thể tách rời yếu tố dân số, bởi con người vừa là chủ thể sáng tạo vừa là khách thể thụ hưởng thành quả của sự phát triển kinh tế – xã hội. Do đó, yêu cầu đặt ra là phải bảo đảm quy mô dân số hợp lý, đồng thời nâng cao chất lượng dân số, nhằm hướng tới mục tiêu cuối cùng là nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Đây cũng chính là nhiệm vụ quan trọng của mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Trong giai đoạn hiện nay, quá trình biến đổi xã hội nói chung và biến đổi cơ cấu xã hội – dân số nói riêng vừa thúc đẩy gia tăng quy mô dân số, vừa làm phát sinh nhiều vấn đề xã hội gây áp lực lớn lên phát triển kinh tế – xã hội, như già hóa dân số, chênh lệch giàu nghèo, bất bình đẳng trong trình độ phát triển, cùng những thách thức về khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, đất đai, nguồn nước và kiểm soát ô nhiễm môi trường. Trong khi đó, dân số vẫn được xem là động lực của sự phát triển, bởi các quá trình dân số như mức sinh, mức tử hay di cư đều tác động trực tiếp đến quy mô và cơ cấu dân số. Khi những yếu tố này phù hợp với nhu cầu phát triển của quốc gia, dân số mới trở thành nguồn lực thúc đẩy phát triển. Ngược lại, thành tựu của phát triển cũng quay trở lại phục vụ cho chính dân số thông qua tăng trưởng GDP, dịch vụ giáo dục, y tế, vui chơi giải trí lành mạnh, cùng một môi trường sống xanh, sạch, an toàn, hướng tới cuộc sống “thịnh vượng” cho con người. Điều đó cho thấy mối quan hệ giữa dân số và phát triển là chặt chẽ và biện chứng: yếu tố này vừa là điều kiện, vừa là tiền đề của yếu tố kia. Vì vậy, mọi chiến lược, quy hoạch hay kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội đều cần lồng ghép các biến số dân số nhằm bảo đảm sự phát triển hài hòa, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, trong đó gắn kết đồng thời các mục tiêu về dân số, kinh tế, xã hội và môi trường.

Thông thường, quá trình biến đổi cơ cấu xã hội – dân số diễn ra song hành với quá trình phát triển kinh tế – xã hội của một quốc gia. Theo lý thuyết quá độ dân số, sự biến đổi này tuân theo quy luật tự nhiên: từ cơ cấu dân số trẻ, chuyển sang cơ cấu dân số vàng và tiến tới già hóa dân số. Thông thường, già hóa dân số chỉ xuất hiện ở các quốc gia có trình độ phát triển cao, nơi quá trình này tạo nên “động lực kép” thúc đẩy sự thịnh vượng. Trong đó, quá độ dân số vừa làm gia tăng quy mô dân số, vừa nâng cao chất lượng dân số dưới tác động của công nghiệp hóa và hiện đại hóa, qua đó thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Nhờ vậy, nhiều quốc gia đã tích lũy được tiềm lực kinh tế đủ mạnh để ứng phó với thách thức già hóa dân số. Tuy nhiên, tại Việt Nam, quá trình này diễn ra với đặc thù riêng: tốc độ già hóa dân số nhanh hơn so với tốc độ phát triển kinh tế – xã hội. Hiện nay, Việt Nam đã bước vào giai đoạn ba của thời kỳ quá độ dân số trong bối cảnh vẫn đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điều này đặt ra thách thức lớn đối với chất lượng cuộc sống, đặc biệt là vấn đề an sinh xã hội cho nhóm người cao tuổi, trong điều kiện Việt Nam vẫn thuộc nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp.

Thực tiễn cho thấy, quá trình quá độ dân số nói chung và biến đổi cơ cấu xã hội – dân số ở Việt Nam nói riêng diễn ra theo quy luật chung của thế giới: từ dân số trẻ, bước vào giai đoạn dân số vàng và tiến tới già hóa dân số. Hiện nay, Việt Nam đang trong thời kỳ dân số vàng, tức là số người trong độ tuổi lao động gấp đôi số người trong độ tuổi phụ thuộc – hay nói cách khác, cứ một người phụ thuộc thì có ít nhất hai người trong độ tuổi lao động. Giai đoạn này bắt đầu từ năm 2007 với tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động đạt 67,31% (so với 53% năm 1979); đến năm 2017 tăng lên 75,5%, năm 2019 là 68%, và ước tính năm 2020 khoảng 74%. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã bước vào quá trình già hóa dân số từ năm 2011, khi tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên đạt 10,1% và người từ 65 tuổi trở lên chiếm 7% tổng dân số.

Như vậy, thực tiễn cho thấy chỉ sau bốn năm bước vào thời kỳ dân số vàng, Việt Nam đã nhanh chóng đối diện với quá trình già hóa dân số. Đây vừa là thành tựu, vừa là thách thức đối với sự phát triển kinh tế – xã hội hiện nay. Già hóa dân số phản ánh kết quả tích cực của công tác dân số do Đảng và Nhà nước thực hiện trong suốt tiến trình lịch sử, song trong bối cảnh Việt Nam mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tốc độ già hóa nhanh sẽ đặt ra sức ép lớn về an sinh xã hội. Phân tích mối tương quan giữa tăng trưởng nguồn nhân lực và tăng trưởng kinh tế cho thấy: một quốc gia muốn duy trì tăng trưởng kinh tế ổn định cần bảo đảm tốc độ tăng trưởng nguồn nhân lực khoảng 2% mỗi năm. Tuy nhiên, số liệu thống kê về biến đổi cơ cấu tuổi dân số Việt Nam giai đoạn 2009–2039 cho thấy tỷ lệ tăng trưởng nguồn nhân lực có xu hướng giảm nhanh, xuống khoảng 0,5%. Nếu lấy mốc nghỉ hưu ở tuổi 60, đến năm 2029 tỷ lệ này có thể xuống dưới 0,5%, và từ năm 2040 Việt Nam sẽ chính thức trở thành quốc gia có cơ cấu dân số già, đồng nghĩa với việc không còn cơ hội tận dụng “cửa sổ dân số vàng”.

Một trong những thách thức lớn hiện nay là vấn đề chăm sóc người cao tuổi. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam ngày càng cao, nhưng số năm sống khỏe mạnh lại thấp. Thống kê cho thấy khoảng 95% người cao tuổi mắc bệnh, chủ yếu là các bệnh mạn tính không lây; trong đó 43,28% người trên 60 tuổi gặp ít nhất một khó khăn trong sinh hoạt hằng ngày do suy giảm sức khỏe hoặc khuyết tật. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết về hệ thống chăm sóc người cao tuổi. Bên cạnh đó, Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 cho thấy quy mô hộ gia đình bình quân giảm từ 4,6 người (năm 1999) xuống còn 3,6 người (năm 2019). Trung bình cứ 10 hộ thì có 1 hộ độc thân; đồng thời, tỷ lệ hộ nhiều thế hệ giảm, trong khi tỷ lệ hộ hạt nhân tăng. Hệ quả là số người cao tuổi được chăm sóc trong gia đình giảm dần, làm gia tăng áp lực lên hệ thống dịch vụ chăm sóc xã hội.

Hiện nay, hệ thống an sinh xã hội dành cho người cao tuổi ở Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của quá trình già hóa dân số. Cả nước mới chỉ có Bệnh viện Lão khoa Trung ương, trong khi ở cấp tỉnh chỉ khoảng 20% có khoa lão khoa. Đội ngũ bác sĩ, điều dưỡng chuyên ngành lão khoa còn thiếu; các cơ sở dưỡng lão ít và phần lớn chưa đáp ứng nhu cầu chăm sóc thực tế. Thực trạng này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải xây dựng hệ thống dịch vụ chăm sóc toàn diện cho người cao tuổi, coi đây là một bộ phận không thể tách rời trong cơ cấu xã hội. Do đó, cần triển khai các giải pháp đồng bộ để ứng phó với biến đổi cơ cấu dân số nói chung và già hóa dân số nói riêng, nhằm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Phát triển bền vững, ở góc độ này, có thể hiểu đơn giản là “không ai bị bỏ lại phía sau”, tức là mọi người, bao gồm cả người cao tuổi, đều được đảm bảo các dịch vụ cần thiết để sống khỏe mạnh, hạnh phúc.

Biến đổi cơ cấu dân số có tác động sâu sắc đến quá trình phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia. Tại Việt Nam, tiến trình già hóa dân số đang diễn ra trong bối cảnh nước ta vẫn thuộc nhóm thu nhập trung bình thấp. Điều này có nghĩa là tốc độ già hóa nhanh hơn tốc độ phát triển kinh tế, khiến nền kinh tế chưa kịp thích ứng, từ đó tạo ra gánh nặng lớn về chi phí an sinh xã hội, đặc biệt đối với nhóm người cao tuổi sau năm 2050 – một thách thức nghiêm trọng cho mục tiêu phát triển bền vững. Trước thực tiễn đó, Đảng và Nhà nước luôn nhấn mạnh nhiệm vụ “bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân”, trong đó có nhóm người cao tuổi, vì như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đảng ta không có mục đích nào khác là đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân.” Do đó, việc xây dựng chiến lược ứng phó với già hóa dân số, thực hiện đồng bộ các giải pháp phù hợp từng giai đoạn, nhằm biến thách thức thành cơ hội, là yêu cầu tất yếu. Đây cũng là con đường để hiện thực hóa khát vọng đưa Việt Nam trở thành quốc gia công nghiệp phát triển, có thu nhập trung bình cao, hội nhập cùng các quốc gia thịnh vượng, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.

Cảnh các cụ già đang thư giãn trong môi trường dưỡng lão — minh họa thực tiễn chăm sóc người cao tuổi tại các trung tâm hiện nay.

Kết luận và một số vấn đề đặt ra
Biến đổi cơ cấu xã hội – dân số chính là quá trình biến đổi nhân khẩu học của mỗi quốc gia, và Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Thời gian và mức độ biến đổi phụ thuộc vào lịch sử phát triển, có thể kéo dài một hoặc hai thế kỷ. Trong tiến trình này, các quốc gia cần tận dụng tối đa lợi thế của “cơ cấu dân số vàng” để bứt phá, bởi dư lợi này chỉ xuất hiện một lần duy nhất trong quá trình nhân khẩu học. Đối với Việt Nam, yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải xây dựng chính sách an sinh xã hội phù hợp để chủ động đón nhận giai đoạn già hóa dân số trong thời gian tới, đồng thời chuẩn bị đầy đủ tiềm lực kinh tế nhằm ứng phó với những thách thức từ biến đổi cơ cấu dân số. Trên cơ sở đó, cần xây dựng các chính sách quản lý đồng bộ, hiệu quả, hướng tới phát triển bền vững và thịnh vượng quốc gia. Xuất phát từ những phân tích trên, tham luận xin đề xuất một số kiến nghị sau:

Hoàn thiện khung pháp lý, đảm bảo hài hòa giữa chính sách dân số và chính sách của sự phát triển, phải đảm bảo các chính sách hiệu lực, hiệu quả, sát với thực tiễn;

Xây dựng giải pháp nâng cao được chất lượng dân số, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, gắn với đào tạo trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, xây dựng chiến lược đào tạo, cơ cấu đào tạo phù hợp cho từng đối tượng;

Tạo việc làm tại chổ, giải quyết việc làm, hạn chế thất nghiệp và bỏ sót nguồn lực lao động trong độ tuổi “vàng”;

Xây dựng hệ thống an sinh xã hội cho người cao tuổi, nâng cao chất lượng hệ thống y tế, đội ngũ y bác sỹ chuyên về lão khoa; xây dựng các trung tâm bảo trợ và chăm sóc người cao tuổi đáp ứng nhu cầu cho người cao tuổi trong thời gian tới.

Những kiến nghị nêu trên không chỉ tập trung giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình biến đổi cơ cấu xã hội – dân số, mà còn hướng tới xây dựng một nền tảng vững chắc cho sự phát triển lâu dài của quốc gia. Việc hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao chất lượng dân số, tận dụng hiệu quả giai đoạn dân số vàng và chủ động ứng phó với già hóa dân số sẽ góp phần bảo đảm sự hài hòa giữa dân số với các yếu tố kinh tế – xã hội và môi trường. Đây chính là điều kiện tiên quyết để thực hiện thành công mục tiêu phát triển bền vững, nơi con người vừa là trung tâm, vừa là động lực của mọi quá trình phát triển. Thông qua đó, Việt Nam có thể từng bước biến thách thức thành cơ hội, hiện thực hóa khát vọng phát triển thịnh vượng, tiến cùng thời đại và không để ai bị bỏ lại phía sau.

Nguyễn Thị Thùy Nhung – Mai Chiếm Hiếu

Tài liệu tham khảo
Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII, 2021, Nxb Chính trị Quốc gia Sự Thật, Hà Nội.
Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện đại hội Đảng trong thời kỳ đổi mới, 2019, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
Đặng Nguyên Anh, 2016, Biến đổi xã hội ở Việt Nam truyền thống và hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
“Bùi Phương Đình” & “Hà Việt Hùng”, 2019, Cơ cấu Dân số vàng, già hóa dân số và thách thức với phát triển, Tạp chí Lý luận Chính trị.
Xem Mai Hường, 2019, “Cả nước thiếu bệnh viện lão khoa”, nguồn:https://tuoitre.vn/ca-nuoc-thieu-benh-vien-lao-khoa20190712101651442.htm
Ủy ban môi trường và phát triển thế giới (WCED), 1987, định nghĩa về phát triển bền vững.
Tổng cục Thống kê: Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở, 2019, Hà Nội, 2020.
Báo Tiền Giang, http://tiengiang.gov.vn/chi-tiet-tin?/dan-so-vang-va-gia-hoa-dan-so-co-hoi-va-thach-thuc/17467644.
Báo Nhân dân, https://nhandan.vn/tin-tuc-y-te/tan-dung-co-cau-dan-so-vang-de-phat-trien-dat-nuoc-607013/
Tạp chí Tài chính, https://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/thuc-trang-luc-luong-lao-dong-viet-nam-va-mot-so-van-de-dat-ra302133.html
Trang thông tin điện tử của Tổng cục thống kê, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/01/thong-cao-bao-chi-tinh-hinh-lao-dong-viec-lam-quyiv-va-nam-2020/
Báo Nhân dân, https://nhandan.vn/tin-tuc-y-te/thuc-day-gia-hoa-nang-dong-va-suc-khoe-tam-than-trong-khu-vuc-asean-624909/