Thứ Sáu, Tháng 5 30, 2025
* Email: bbt.dongnama@gmail.com *Tòa soạn: 0989011688 - 0768908888
spot_img

“Áo dài Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử” – Một triển lãm không thể bỏ qua



ĐNA -

Sáng nay 29/5/2025, tại Bảo tàng Quảng Ninh, Bảo tàng Lịch sử Huế phối hợp với Bảo tàng Quảng Ninh tổ chức triển lãm “Áo dài Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử”. Triển lãm giới thiệu vẻ đẹp và giá trị văn hóa của áo dài qua từng giai đoạn, từ truyền thống đến hiện đại, từ dân gian đến cung đình, phản ánh sâu sắc tâm hồn Việt và sự lan tỏa của áo dài từ Huế ra thế giới.

Lãnh đạo Sở VHTT& DL Quảng Ninh và Sở Văn hóa Huế ắt băng khai mạc triển lãm

Áo dài, biểu tượng của văn hóa Việt Nam từ lâu đã in sâu trong tâm khảm người dân như một huyền thoại sống động, như linh hồn dân tộc. Không chỉ là trang phục truyền thống, áo dài còn là đại diện cho vẻ đẹp trường tồn, mang bản sắc của một đất nước và ngày càng trở thành thương hiệu văn hóa Việt trên trường quốc tế.

Áo dài được xem là một trong những di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc nhất của dân tộc Việt Nam. Trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, áo dài luôn không ngừng biến đổi, nhưng vẫn gìn giữ được nét đẹp dịu dàng của người phụ nữ, sự khiêm nhường mà mạnh mẽ của người đàn ông Việt. Từ kiểu dáng, chất liệu, màu sắc đến cách mặc, áo dài đã phản ánh dòng chảy thời gian, sự tiếp biến văn hóa và tinh thần dân tộc bền bỉ.

ThS. Nguyễn Đức Lộc, giám đốc Bảo tàng lịch sử thành phố Huế đọc diễn văn khai mạc triển lãm

Hành trình phát triển của áo dài Việt Nam
Áo dài Việt Nam chủ yếu có hai hình thức truyền thống: áo tứ thân và áo ngũ thân. Trong đó, áo tứ thân gắn với phụ nữ nông thôn Bắc Bộ, từng là trang phục phổ biến cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Áo ngũ thân, xuất hiện từ thời chúa Nguyễn, phát triển mạnh trong thời Nguyễn, là kiểu dáng định hình lâu dài của áo dài, từ đó tạo tiền đề cho những cải tiến hiện đại sau này.

Từ áo ngũ thân truyền thống, các nhà thiết kế đã sáng tạo ra nhiều phiên bản mới phù hợp với đời sống đô thị và thẩm mỹ hiện đại: áo dài Le Mur cuối thập niên 1930; áo dài cổ cao thập niên 1950; áo dài cổ thuyền, tay raglan, thắt eo, mini trong các thập niên 60–70; và áo dài đương đại từ thập niên 80 đến nay. Mỗi giai đoạn mang đến một phong cách đặc trưng, nhưng tất cả đều tôn vinh đường nét cơ thể, sự duyên dáng và nền nã của người Việt.

Lãnh đạo Sở Văn hóa, TT& DL Quảng Ninh và Sở VH& TT Huế tham dự triển lãm

Huế, Kinh đô áo dài Việt Nam
Chiếc áo dài không chỉ là biểu tượng văn hóa chung, mà còn là điểm nhấn đặc sắc của văn hóa xứ Huế. Trước năm 1945, áo dài là trang phục thường nhật của người dân nơi đây, từ học đường đến chợ búa, từ nghi lễ đến đời sống hàng ngày. Nam phụ lão ấu đều khoác lên mình chiếc áo dài như một phần không thể thiếu của nếp sống cung đình và dân gian.

Do ảnh hưởng của bối cảnh lịch sử, địa lý và văn hóa, áo dài Huế đã phát triển thành một sắc thái riêng biệt – từ cách cắt may, lựa chọn màu sắc, họa tiết, cho đến phong thái khi mặc. Huế không chỉ bảo tồn những giá trị cổ truyền mà còn là địa phương tiên phong trong phục hồi và phát huy áo dài trong đời sống hiện đại. Từ năm 1989, phụ nữ Huế bắt đầu mặc áo dài đến công sở, trường học; đến năm 2020, áo dài nam được đưa vào như lễ phục trong khối cơ quan nhà nước.

Đặc biệt, năm 2024, “Tri thức May và Mặc áo dài Huế” đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ghi danh vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, khẳng định thêm vị thế của Huế trong dòng chảy văn hóa dân tộc.

Trình diễn thời trang áo dài và cổ phục tại triển lãm

Triển lãm “Áo dài Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử”, không gian gặp gỡ di sản
Nhằm tiếp tục khẳng định giá trị văn hóa – thẩm mỹ của áo dài, đồng thời giới thiệu đến công chúng trong và ngoài nước cái nhìn toàn diện về lịch sử phát triển của trang phục truyền thống này, Bảo tàng Lịch sử thành phố Huế phối hợp cùng Bảo tàng Quảng Ninh tổ chức triển lãm chuyên đề “Áo dài Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử”.

Triển lãm trưng bày nhiều bộ sưu tập quý, bao gồm:

Áo dài tứ thân
Áo tứ thân là loại hình trang phục phổ biến, có lịch sử lâu đời của phụ nữ Miền Bắc Việt Nam. Áo được sử dụng như trang phục hàng ngày đến nửa đầu thế kỷ 20. Áo có hai vạt trước và sau. Vạt trước có hai tà tách riêng nhau theo chiều dài. Vạt phía sau cũng chia làm hai nhưng khâu vào với nhau hình thành một đường dài gọi là sống áo. Vì ở thời này, khổ vải chỉ có chừng 35-40 cm nên phải can tà lại với nhau để thành một vạt áo. Vậy nên mới gọi là áo tứ thân. Áo tứ thân gồm hai vạt, bốn tà, không có khuy cài áo nên bên trong phải mặc thêm chiếc yếm cổ xoay. Ngoài yếm là chiếc áo cánh mỏng phối nhiều màu sắc trên 4 thân áo. Kèm dây lưng nhỏ giữ nhẹ sự kết hợp giữa áo cánh khoác bên ngoài và chiếc váy. Chiếc dây lưng này còn có giá trị trang trí về màu sắc. Ngày nay, áo dài tứ thân được nhiều phụ nữ sử dụng trong các dịp lễ hội truyền thống ở một số vùng miền Bắc nước ta.

Áo dài ngũ thân
Áo ngũ thân lập lĩnh là một loại trang phục truyền thống của người Việt Nam. Nhiều nghiên cứu cho rằng áo ngũ thân ra đời từ cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII, và được định chế vào năm 1744, sau cải cách trang phục Đàng Trong của chúa Nguyễn Phúc Khoát. Áo ngũ thân nam có cổ cao, thẳng và vuông tượng trưng cho sự chính trực của người quân tử. Áo dài gồm 5 thân, trong đó 4 thân thuộc hai vạt trước, sau tượng trưng phụ mẫu hai bên và thân thứ 5, ở bên trong, tượng trưng cho chính người mặc áo. Năm hạt cúc cài áo bố trí kiểu hình chữ “quảng”, mang ý nghĩa tượng trưng cho ngũ thường (nhân – lễ – nghĩa – trí – tín), ngũ luân (quân thần: vua – tôi, phụ tử: cha – con, phu phụ: chồng – vợ, huynh đệ: anh – em, bằng hữu: bạn bè). Mặc chiếc áo dài ngũ thân là mang trên mình đạo làm người, không được làm những điều trái luân thường đạo lý.

Áo dài ngũ thân có 2 loại chính là áo ngũ thân tay chẽn (tay áo được bó chẽn vào tay người mặc) và áo ngũ thân tay thụng (hay áo tấc, còn gọi là áo rộng), áo này tay được may rộng ra 20cm đến 30cm tùy vào người mặc, tay áo vuông góc với thân áo và dài bằng hoặc hơn tà áo. Áo ngũ thân rất thịnh hành từ khi xuất hiện cho đến khoảng nữa đầu thế kỉ 20, và ngày nay đang có sự phục hồi mạnh mẽ.

Áo dài ba thân
Trong các thập niên 1930 và 1940, cách may áo dài vẫn không thay đổi nhiều, nhưng phụ nữ thành thị bắt đầu dùng các loại vải màu tươi, sáng hơn, được nhập về từ Âu Châu. Một vài nhà tạo mẫu áo dài bắt đầu xuất hiện trong giai đoạn này, nhưng gần như họ chỉ bỏ được phần nối giữa sống áo, vì vải phương Tây dệt được khổ rộng hơn, nhưng tay áo vẫn may nối. Các họa sỹ Lê Phổ và Lê Thị Lựu đi tiên phong trong việc bỏ sống nối dọc giữa thân áo, và thu gọn bớt chiều rộng của vạt áo và tay áo. Từ đây, chiếc áo dài ba thân được hình thành, xu hướng này nhanh chóng được đón nhận nhưng chỉ được ưa chuộng trong một thời gian ngắn, sau đó quay trở về với áo dài ngũ thân và nhường chỗ cho xu hướng áo dài mới.

Áo dài cát tường (lemur)
Áo dài Le Mur được họa sỹ Cát Tường ở phố Hàng Da, Hà Nội sáng tạo ra cuối những năm 1930. Thân áo lúc này chỉ có vạt trước và vạt sau. Vạt trước được nối dài chấm đất để tăng thêm dáng vẻ uyển chuyển trong từng bước đi, hàng nút phía trước được dịch chuyển sang một chỗ phía vị trí mở áo dọc theo vai rồi chạy dọc theo một bên sườn, tạo nên vẻ yêu kiều và gợi cảm rất độc đáo. Áo dài Le Mur có cổ tròn hay cổ lá sen, nhún bèo, hay khoét rộng để hở cổ, viền đăng ten. Vai áo may bồng, tay măng séc chun, hoặc loe hình phễu, hoặc không có tay; lưng để hở đến eo; gấu áo hình sóng lượn đáp vải khác màu hoặc ren. Bỏ vạt con gây cộm trên ngực, phần ngực và phần eo may sát hơn, nâng cao phần xẻ tà để tạo dáng mềm mại thể hiện được nét đẹp, đường cong duyên dáng của cơ thể người phụ nữ. Áo dài Le Mur thường mang những gam màu dịu, nhẹ, thanh nhã và tươi sáng.

Áo dài Le Mur bị xem là táo bạo, chỉ có giới nghệ sỹ hay giới thời thượng mới dám mặc. Cũng vì những tranh cãi khen chê mà áo dài Cát Tường có tiếng vang rộng. Nhưng chỉ đến khoảng năm 1945 -1947 loại áo này dần thất sủng.

Áo dài thập niên 1950
Áo dài cổ cao: Bắt đầu phổ biến vào năm 1950, lúc này áo nịt ngực (xu chiêng) ngày càng phổ biến nên áo dài được may chít eo, ôm sát vào người. Thân áo sau, rộng hơn thân áo trước, nhất là ở phần mông. Cổ áo rất cao, trong khi gấu áo cắt thẳng ngang và dài đến mắt cá chân.

Áo dài cổ thuyền: Được đạo diễn Thái Thúc Nha sáng tạo từ năm 1958 tại Sài Gòn và sau đó phổ biến ở miền Nam Việt Nam. Đây là mẫu áo dài tà rộng ôm khít, thân áo có đường kết cấu tạo ly chít ở thân trước và thân sau nhằm làm giảm tối đa độ rộng của áo. Đặc biệt, phần cổ áo được thiết kế không có chân, cắt rộng tạo thành dáng hình thuyền. Nhiều người sau đó còn may áo dài với cổ khoét tròn hay trái tim. Loại áo dài hở cổ này được một số nhà phê bình phương Tây cho là hợp với thời tiết nhiệt đới của miền Nam, nhưng cũng khiến nhiều người phản ứng về việc không hợp với thuần phong mỹ tục.

Áo dài với tay raglan (rắc lăng)
Cách may áo dài thời điểm trước thập niên 1960 có một nhược điểm lớn là các nếp nhăn rất dễ xuất hiện ở hai bên nách và vai. Thập niên 1960, nhà may Dung ở phường Đakao, Sài Gòn đã đưa ra kiểu may áo dài với cách ráp tay “Raglan” (rắc lăng). Cách ráp tay này đã giải quyết được nhược điểm nêu trên. Với loại áo này, tay áo được nối từ cổ, xéo xuống nách thay vì từ vai xuống nách, loại tay áo này sẽ không nhìn thấy khúc nối ở lưng cánh tay, làm cho phần vai áo mềm mại hơn, cho phép tà áo ôm khít theo đường cong người mặc, vừa giúp người phụ nữ cử động tay thoải mái, dễ dàng và linh hoạt hơn. Có thể nói, áo dài tay Raglan là một trong những chi tiết “tân thời” thành công và có sức ảnh hưởng nhất đối với áo dài Việt Nam hiện đại.

Áo dài chít eo lưng ong
Những năm 1960, ở miền Nam Việt Nam áo dài chít eo trở thành kiểu dáng thời thượng. Lúc này, chiếc áo nịt ngực tiện lợi đã được sử dụng rộng rãi. Phụ nữ thành thị với tư duy cởi mở muốn tôn lên những đường cong cơ thể qua kiểu áo dài chít eo. Đặc trưng của kiểu áo dài này là có đường eo nhấn sâu, cắt cao lên trên cạp quần, tà may dài đến mắt cá chân nhằm tôn dáng người phụ nữ “thắt đáy lưng ong”.

Áo dài mini
Trong khoảng thập niên 1960-1970, ở miền Nam Việt Nam, áo dài mini của nữ giới trở thành kiểu áo dài được yêu thích. Vạt áo bây giờ hẹp và ngắn, có khi đến đầu gối. Áo may nới hơn phom áo rộng, lúc ban đầu có xếp li ở eo, nhưng các nhà thiết kế lúc đó thấy áo dài vạt ngắn mà có chít li trông cũn cỡn, phản mỹ thuật, cho nên chỉ một thời gian sau áo dài mini không chít eo nữa, nhưng vẫn giữ đường lượn một cách tương đối theo thân thể. Cổ áo thấp xuống còn 3 cm, ôm vừa vặn để tôn lên chiếc cổ thon nhỏ mà lại không tạo cảm giác bí bách. Tay áo may theo kiểu raglan, ôm vừa sát bờ vai, ống tay áo dài vừa chạm đến dưới cổ tay. Kiểu áo dài này tạo nên sự thoải mái, trẻ trung và năng động nên được các nữ sinh rất ưa chuộng.

Áo dài thập niên 1980 đến nay:
Áo dài thập niên 1980 đến nay không có nhiều thay đổi. Thỉnh thoảng cách mặc có thay đổi nhưng không tạo được điểm nhấn nào sâu đậm. Năm 1988, sau cuộc thi Hoa hậu Áo dài, thì áo dài đã phát triển rực rỡ. Các nhà thiết kế áo dài đã đưa các chất liệu lên áo dài như vải thổ cẩm, rồi vẽ trên áo dài và thời gian gần đây là thêu, in trên áo dài.

Có thể nói, trong giai đoạn này, áo dài chỉ thay đổi về hình thức còn kiểu dáng đã được hoàn thiện từ lâu với sự tích hợp với kiểu áo Lê Phổ và kiểu ráp tay Raglan…

Mỗi mẫu áo không chỉ là một hiện vật thời trang, mà còn là chứng tích sống động của lịch sử văn hóa, xã hội và thẩm mỹ qua từng thời kỳ. Đặc biệt, triển lãm dành một phần quan trọng để tôn vinh những thiết kế áo dài Huế – với hoa văn, màu sắc và chất liệu phản ánh chiều sâu tinh thần và tính biểu tượng của “Huế – Kinh đô áo dài Việt Nam”.

Trình diễn thời trang áo dài và cổ phục tại triển lãm

Triển lãm “Áo dài Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử”, từ ngày 29/5- 29/6/2025 là dịp để công chúng chiêm ngưỡng và cảm nhận những giá trị trường tồn của một biểu tượng văn hóa dân tộc. Thông qua từng nếp vải, từng đường kim mũi chỉ, người xem không chỉ thấy được vẻ đẹp của trang phục, mà còn hiểu sâu sắc hơn về tâm hồn Việt – từ truyền thống đến hiện đại, từ dân gian đến cung đình, từ Huế lan tỏa đến khắp mọi miền đất nước và cả thế giới./.

Nguyễn Đức Lộc