Chiến thắng của những Mùa Xuân chiến công, ngút ngàn hào khí non sông Việt

Vào năm 2000, trong dịp kỷ niệm 25 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, Nhà Xuất bản Trẻ đã công bố loạt tư liệu (từng đăng nhiều ký trên báo Thanh Niên, của tác giả MAI NGUYỄN): Đọc hồi ký của tướng tá Sài Gòn xuất bản ở hải ngoại. Ngoài ra, còn có nhiều tác phẩm khác (xuất bản trong và ngoài nước) với lời kể, hồi ức của chính “tướng tá Sài Gòn”, hay công trình của giới nghiên cứu (trong bối cảnh, lần lượt các hồ sơ được giải mật), đã cho thấy:
Chiến thắng Mùa Xuân của Nhân dân và dân tộc Việt Nam, trong Chiến dịch mang tên vị lãnh tụ đã là Danh nhân Văn hóa kiệt cuất của thế giới – Anh hùng giải phóng dân tộc: Chủ tịch Hồ Chí Minh, là một hiển nhiên tất yếu. Lịch sử cổ kim, đông tây đã ghi lại và chứng minh rằng, phi nghĩa không thể nào thắng chính nghĩa, bất kỳ thế lực ngoại xâm, ngoại bang nào “xiềng xích”, tước đoạt độc lập, tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của bất kỳ thuộc địa nào, bằng mọi phương pháp của chủ nghĩa thực dân mới hay cũ, chắc chắn phải đi đến thất bại, tự mình lao vào con đường diệt vong.
![]() |
![]() |
Bộ binh và xe tăng yểm trợ của Quân Giải phóng tiến qua cầu Trịnh Minh Thế (bên trái các anh là cầu De Latre).Nguồn ảnh: Bảo tàng Đà Nẵng.
Tác giả của những câu chuyện, hay cả một bộ sách, dù là người của “phía bên kia” cũng thừa nhận “Ngụy quân-Ngụy quyền Sài Gòn chưa đánh, đã thua cuộc”. Dù có một số bào chữa, biện minh, có tính “cố vớt vát, đổ lỗi, …” vẫn khó lòng được lịch sử và nhân chứng chấp nhận. Phần lớn, các tác giả đã chọn cách nói đúng-nói thẳng, phơi bày trắng bản chất:
“Nhiều tài liệu công bố sau này cho thấy, Nguyễn Văn Thiệu cho rằng, Đà Nẵng là căn cứ quân sự khổng lồ được Hoa Kỳ giúp xây dựng, nếu tái phối trí lực lượng để phòng thủ, hy vọng sẽ chặn đứng bước tiến quân Giải phóng.
Song, “Trước sức tiến công như vũ bão của quân giải phóng, 2 ngày sau khi tháo chạy từ Huế vào Đà Nẵng, Trung tướng Ngô Quang Trưởng đã lớn tiếng hô hào: “Anh em chiến hữu hãy tử thủ tại Đà Nẵng. Tôi sẽ cùng anh em chiến đấu đến viên đạn cuối cùng” (27/3/1975). Nhưng ngay ngày hôm sau (28/3/1975), chưa kịp bắn viên đạn nào thì tướng Trưởng đã lên trực thăng đáp xuống tàu hải quân, rồi vào thẳng Sài Gòn”.
Khi được Nguyễn Văn Thiệu tin tưởng, giao cho phòng thủ Huế, ngày 23/3/1975, Trung tướng Ngô Quang Trưởng, với tư cách Tư lệnh quân đoàn 1, Quân khu 1 từng tuyên bố rằng: “Tôi sẽ sống chết với cố đô, Cộng quân muốn vào Huế phải bước qua xác tôi”.
Nhưng 3 ngày sau đó, 26/3/1975, hàng vạn quân lính Việt Nam Cộng hòa tự tan rã ở cửa Thuận An và cửa Tư Hiền. Quân Giải phóng tiến vào Huế, nhưng không vấp phải sức kháng cự quá lớn và đặc biệt không phải bước qua xác vì Tướng Trưởng đã nhanh chân cao chạy xa bay vào Đà Nẵng ngày 25/3/1975 (1).
Nắm chắc thời cơ, tiến công thần tốc, không phải đánh lớn, nhưng cũng không bỏ lỡ thời cơ, cuộc tiến công và nổi dậy đánh chiếm căn cứ quân sự liên hợp Đà Nẵng giành thắng lợi chỉ trong 3 ngày (từ 26 đến 29/3/1975). Trong khi đó, đầu não chỉ huy địch nhận định “Cộng sản muốn đánh vào Đà Nẵng phải mất thời gian chuẩn bị ít nhất là một tháng”.
“Đà Nẵng là một căn cứ quân sự liên hợp hải, lục, không quân hiện đại và mạnh vào bậc nhất ở miền Nam của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Lực lượng của địch trên chiến trường khoảng 75.000 tên. Đây là cơ sở để Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố “tử thủ” Đà Nẵng bằng mọi giá. Nguyễn Văn Thiệu cho rằng, sau giải phóng Huế, nếu ta muốn tiến công Đà Nẵng thì phải mất ít nhất một tháng chuẩn bị. Như thế có thể thấy, Nguyễn Văn Thiệu hoàn toàn tin tưởng vào tướng Ngô Quang Trưởng và quân lực Việt Nam Cộng hòa tại đây” – Tiến sĩ Sử học Phạm Minh Thế, Khoa Lịch sử, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, phân tích.
![]() |
![]() |
Xe tăng Quân giải phóng từ ngoại ô, tiến vào trung tâm Đà Nẵng chiều ngày 29/3/1975.
Đà Nẵng đã “thất thủ”, sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn chỉ tính bằng ngày và giờ
Bộ Tổng Tư lệnh quyết định mở chiến dịch tiến công Đà Nẵng với lệnh tiến về Đà Nẵng bằng “những biện pháp đặc biệt nhanh chóng, bỏ qua những mục tiêu ở dọc đường, tiến thẳng, giải phóng Đà Nẵng” được Đại tướng Võ Nguyên Giáp truyền đạt qua điện khẩn, gửi vào chiến trường cho Quân đoàn 2 và Quân khu 5.
Thành phố Đà Nẵng được giải phóng ngày 29 tháng 3 năm 1975, và nếu tính cột mốc thắng lợi đầu tiên của chiến dịch Xuân Hè năm 1975, ngày 19/3, tỉnh Quảng Trị được giải phóng, thì Đà Nẵng được giải phóng chỉ sau tỉnh Quảng Trị đúng 10 ngày. Đây là minh chứng cho tinh thần “thần tốc – thần tốc, chớp thời cơ, kịp thời nhất, nhanh chóng nhất, táo bạo nhất, bất ngờ nhất và chắc thắng” của Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh Chiến dịch Xuân – Hè.
Thắng lợi nhanh chóng của chiến dịch Huế – Đà Nẵng đã làm phá sản ý định co cụm chiến lược của Ngụy quân-Ngụy quyền ở duyên hải Trung bộ; có ý nghĩa rất quan trọng về chiến lược, góp phần làm thay đổi so sánh thế và lực trên chiến trường giữ ta và địch.
Mất Đà Nẵng, chính quyền Sài Gòn đã mất đi chiến địa cuối cùng, mất đi bãi đổ bộ mà Thiệu vẫn mơ tưởng đến hình ảnh những hạm đội Mỹ đáp xuống để cứu nguy. Đòn tiến công Đà Nẵng thực sự đã đẩy quân ngụy vào tình thế tuyệt vọng, tạo điều kiện cho ta đẩy nhanh cuộc Tổng tiến công chiến lược. Ngay trong đêm 29 tháng 3, khi Đà Nẵng vừa được giải phóng, các hãng tin phương Tây đã bình luận: “Kể từ đây, khi Đà Nẵng đã “thất thủ”, sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn chỉ tính bằng ngày và giờ”.
![]() |
![]() |
Kỷ niệm 35 năm, ngày Giải phóng thành phố Đà Nẵng (29 tháng 3 năm 1975-2010).Ảnh: T.Ngọc.
Tướng Robert Thomson (cựu cố vấn về chiến tranh Việt Nam của Nhà Trắng), khi tham gia bình luận về sự kiện lần lượt Huế và Đà Nẵng thất thủ (trên AFP, ngày 30/3/1975, chỉ một ngày sau khi Đà Nẵng được giải phóng), đã nói rất thẳng rằng: “Tôi tin chắc rằng, toàn bộ Nam Việt Nam sẽ sụp đổ và sự rút lui của Mỹ ở Đông Dương là sự rút lui lớn nhất mà thế giới được chứng kiến, kể từ khi Napoléon rút khỏi Moskva”.
“Chiến dịch tiến công Đà Nẵng đã gây cho địch tổn thất lớn về vật chất, kỹ thuật, tan rã lớn về tổ chức, bế tắc về chiến thuật, chiến lược và quan trọng nhất là suy sụp lớn về tinh thần, đẩy quân ngụy đứng trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn không gì có thể cứu vãn nổi, mở ra cho ta thời cơ, điều kiện mới giải phóng Sài Gòn-Gia Định và giải phóng hoàn toàn miền Nam” – Thạc sỹ Nguyễn Trọng Thành, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, nhìn nhận.

Thạc sỹ Nguyễn Trọng Thành, trong Quảng Nam – Đà Nẵng 30 năm chiến đấu và chiến thắng 1945-1975; Nhà Xuất bản Đà Nẵng) còn nêu rõ thêm: Thắng lợi của chiến dịch tiến công Đà Nẵng đã góp phần mở ra một địa bàn chiến lược có ý nghĩa quan trọng nhiều mặt. Cùng với kết quả thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên, Trị-Thiên và Nam-Ngãi, một vùng lãnh thổ rộng lớn bao gồm 5 tỉnh, thành phố đồng bằng ven biển tiếp giáp với miền Bắc xã hội chủ nghĩa, nối liền với vùng mới giải phóng ở Tây Nguyên đã tạo nên một hậu phương chiến lược hoàn chỉnh hơn.
Với hậu phương mới được tạo ra, ta có điều kiện tốt hơn trong việc bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, bảo đảm cơ động lực lượng, đáp ứng với yêu cầu tập trung lực lượng quy mô lớn cho việc giải phóng Sài Gòn – Gia Định trong một thời gian ngắn. Ta lại thành lập được thêm cánh quân phía Đông – mà lực lượng chủ yếu là Quân đoàn 2 – , tiến theo đường số 1 vào hội quân giải phóng Sài Gòn, tạo nên sức mạnh áp đảo địch từ mọi hướng để giành thắng lợi chắc chắn trong chiến dịch Hồ Chí Minh”.
Trần Ngọc
(1) trích từ bài viết trên Blog Việt Nam thịnh vượng “Tuyên bố “tử thủ” rồi …bỏ chạy” của tác giả Bình Nguyễn.
Mời độc giả
XEM TIẾP: Đà Nẵng thất thủ, sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa chỉ còn tính bằng ngày, bằng giờ. Bài cuối
QUAY LẠI Đà Nẵng thất thủ, sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa chỉ còn tính bằng ngày, bằng giờ. Bài 1