Thứ Sáu, Tháng 12 5, 2025
* Email: bbt.dongnama@gmail.com *Tòa soạn: 0989011688 - 0768908888
spot_img

Chân dung con người thật của Bảo Ninh qua trần thuật của đồng đội



ĐNA -

Khi đọc “Nỗi buồn chiến tranh”, tôi giật mình. Hoàng Ấu Phương viết về chính mình, về tôi, về chúng tôi, những người lính trong chiến tranh. Nhưng trong đó, có quá nhiều chi tiết bị hư cấu, sai lệch đến mức khó chấp nhận. Dẫu biết văn học cần hư cấu, song cách hư cấu như Phương đã khiến những người từng cầm súng như chúng tôi khó đồng tình. Với độc giả chưa từng qua chiến trận, tác phẩm có thể gợi nỗi buồn, sự bi lụy, thậm chí làm mất niềm tin, điều hoàn toàn trái ngược với tinh thần của thế hệ chúng tôi trong khói lửa. Thế nhưng, “khẩu vị” ấy lại được Mỹ và phương Tây đặc biệt ưa chuộng, săn đón.

Bằng sự bôi nhọ sự nghiệp chống Mỹ của nhân dân ta, Bảo Ninh không chỉ xúc phạm đến những người đang sống…

Bảo Ninh, người bạn chiến đấu năm xưa
Bảo Ninh, tên thật là Hoàng Ấu Phương, nguyên sinh viên năm thứ hai khoa Sinh, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Anh nhập ngũ cùng ngày với tôi, ngày 6/9/1971. Chúng tôi thuộc lớp được xem là “thế hệ vàng” của sinh viên Việt Nam, hăng hái gác bút nghiên, lên đường ra trận, chiến đấu anh dũng vì Tổ quốc.

Trong suốt những năm tháng chiến tranh, chúng tôi sống và chiến đấu cùng một đơn vị. Phương là lính tiểu đội thông tin, còn tôi là lính trinh sát. Trung đội chúng tôi gồm khoảng hơn hai chục người – phần lớn là sinh viên từ các trường Bách khoa, Tổng hợp, Sư phạm, Nông nghiệp. Ngoài vũ khí cá nhân, chúng tôi mang theo những thiết bị điện đài, máy phát – thu, cuộn dây hữu tuyến, bình ắc quy, ống nhòm, khí tài TZK… Hầu hết đều do Liên Xô viện trợ, còn lương khô, bông băng, thuốc chống sốt rét như Quinin, Astesunat hay “Phòng ba” là của Trung Quốc.

Chúng tôi hành quân và chiến đấu qua nhiều chiến trường – từ miền Bắc, vào Nam, sang Lào, rồi Campuchia (gọi là các chiến trường B, C, D). Trải qua hàng trăm trận đánh, ác liệt nhất là Buôn Ma Thuột, sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu Ngụy, Dinh Độc Lập…, chúng tôi luôn sát cánh bên nhau. Sự gắn bó ấy khiến tôi hiểu rõ Phương – từ tính cách, nếp sống, đến những suy nghĩ sâu kín nhất.

Chiến tranh, với chúng tôi, không lãng mạn như trong tiểu thuyết hay bài hát. Nó đầy đói khát, sốt rét, máu và nước mắt. Có những lúc phải nhặt từng mảnh xương, mẩu quần áo của đồng đội để chôn cất. Nhưng giữa khốc liệt, chúng tôi không sợ hãi, không đào ngũ, không đầu hàng. Chúng tôi vẫn tin tưởng, yêu thương nhau và tin chắc Tổ quốc sẽ chiến thắng.

Khi ấy, tất cả chúng tôi đều mang một ước mơ giản dị: được trở về – người sinh viên quay lại giảng đường, người công nhân về nhà máy, người nông dân trở lại cánh đồng. Mong được sống một cuộc đời bình thường, lấy vợ, sinh con, kể cho con nghe về chiến tranh một cách trung thực, không tô hồng cũng chẳng bôi đen. Vâng, đó mới là sự thật của chúng tôi, khác xa với “Nỗi buồn chiến tranh” mà nhà văn Bảo Ninh sau này viết lại.

Một góc tầng trệt nhà Bảo Ninh, một chiều mùa đông 1996. Từ trái sang: Nguyễn Thanh Sơn, Bảo Ninh, Phạm Xuân Nguyên (nhóm 72) và Nguyễn Quang Lập (bọ Lập).

Người bạn chiến trường và “Nỗi buồn chiến tranh”
Sau ngày đất nước thống nhất, chúng tôi cùng trở lại Đại học Tổng hợp Hà Nội để học nốt chương trình và nhận bằng tốt nghiệp. Tôi ra trường trước Phương một năm vì học trên một khóa. Sau đó, cả hai chúng tôi đều công tác tại Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam.

Tôi làm việc cùng cơ quan với cụ Hoàng Tuệ, thân sinh của Bảo Ninh (Hoàng Ấu Phương). Cụ là Giáo sư, Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học, một người mà tôi luôn kính trọng như cha. Theo lời Phương kể khi chúng tôi còn ở Hang đá Chà Lỳ – bên dòng Xê Băng Hiêng, chú ruột của Phương là nhạc sĩ Hoàng Vân, còn bác bên ngoại là Đại tá Hà Văn Lâu, người nổi tiếng trong kháng chiến. Lúc đó, chúng tôi đều tin, vì nghĩ rằng cậu bạn họ Hoàng đang tự hào về gia đình mình. Sau này tôi mới biết, Phương đã “nói cho oai”, một chút tô điểm tuổi trẻ giữa bom đạn.

Có lẽ sinh trưởng trong một gia đình nền nếp, nên khi về Viện Sinh học, Phương phát triển khá thuận lợi. Anh là tổ trưởng Đảng, quyền phụ trách Phòng Sinh lý – Sinh hóa thực vật, dù chưa có học vị tiến sĩ. Nhưng tiếc thay, những năm đầu thập niên 1980, Phương bị kỷ luật nặng vì hành vi thiếu trung thực và gây mất đoàn kết nội bộ. Vụ việc liên quan đến việc phá hoại mẫu thí nghiệm của đồng nghiệp, khiến công an phải vào cuộc, và Phương buộc phải rời khỏi Viện, bị khai trừ Đảng, phải ở nhà một thời gian dài.

Tôi không chứng kiến trực tiếp sự việc, vì công tác ở Viện khác. Biết tin, cụ Hoàng Tuệ – người coi tôi như con – đã nhờ tôi tìm cách động viên Phương. Tôi thương bạn, kính cụ, nên đã cố gắng nhiều, nhưng không thể kéo Phương trở lại. Viết ra những dòng này, tôi chẳng hề vui. Giận có, nhưng vẫn thương.

Tôi vẫn luôn tự hỏi: Vì sao người bạn, người đồng đội vào sinh ra tử cùng mình lại “trở cờ”? Vì sao “Nỗi buồn chiến tranh” của cậu ấy lại được Mỹ và phương Tây săn đón, được trao giải thưởng, được đề nghị in đi in lại? Vì sao nhiều người trẻ sinh sau 1975 lại thích đọc tác phẩm ấy đến vậy?

Phương đã chọn một con đường khác, cùng nhóm nhà văn Nguyên Ngọc, “Nhóm 72”. Cậu rẽ sang viết văn, và thành công vang dội với “Nỗi buồn chiến tranh”. Tôi mừng cho bạn, người từng ngã đau mà vẫn đứng dậy. Thành công của Phương là dám chạm vào “góc khuất của chiến tranh”, điều không phải ai cũng đủ dũng cảm viết. Nhưng điều đáng tiếc, là khi phản ánh góc khuất, nhà văn cần trung thực, không được xuyên tạc lịch sử, điều mà Đảng, Nhà nước, nhân dân và quân đội ta vẫn luôn nhấn mạnh.

Tôi đã đọc “Nỗi buồn chiến tranh” với tâm thế người bạn, người đồng đội muốn hiểu “cái thằng Thần Sầu” ngày nào viết gì về chúng tôi. Nhưng càng đọc, tôi càng giật mình. Phương viết về chính mình, về tôi, về chúng tôi, nhưng nhiều chi tiết bị bịa đặt, sai sự thật đến mức khó chấp nhận. Văn học có quyền hư cấu, nhưng hư cấu phải dựa trên sự thật, chứ không thể làm méo mó ký ức của những người từng đổ máu.

Những ai chưa từng qua chiến trận có thể thấy trong tác phẩm đó nỗi buồn, bi lụy, mất niềm tin, nhưng với chúng tôi – những người cầm súng khi ấy, đó không phải là tâm thế của người lính Việt Nam. Tuy nhiên, “khẩu vị ấy” lại rất hợp với Mỹ và phương Tây, những người vốn ưa thích nhìn chiến tranh Việt Nam qua lăng kính bi thương, cá nhân hóa.

Ngày ấy, trong trung đội, anh em chúng tôi gọi Phương bằng biệt danh “Thần Sầu”, một cái tên rất đúng với tính cách của cậu. Sau chiến tranh, Phương lại tự tách mình khỏi đồng đội, tránh mọi cuộc gặp gỡ. Dù tôi đã cố tìm lại toàn bộ anh em cũ, chỉ riêng Phương là luôn lẩn tránh. Tôi chỉ còn gặp cha mẹ cậu – hai người mà tôi luôn kính trọng.

Phương “Thần Sầu” ạ, với tôi, “Nỗi buồn chiến tranh” không chỉ là tiểu thuyết mà còn là một nỗi buồn khác, thật hơn, của tình bạn đã lạc lối.

Chiến tranh đã lùi xa gần nửa thế kỷ, nhưng ký ức về nó vẫn còn nguyên trong lòng mỗi người lính chúng tôi không chỉ là khói lửa, mất mát, mà còn là tình đồng đội, là niềm tin và lý tưởng đã dẫn dắt một thế hệ. Nhưng trong sâu thẳm, tôi vẫn mong rằng, khi viết về quá khứ, nhất là về chiến tranh, nơi hàng triệu người đã ngã xuống, ngòi bút của người cầm bút phải trung thực, công bằng và nhân hậu.

Chiến tranh có thể buồn, có thể đau, nhưng với cuộc chiến tranh đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ độc lập và tự do của dân tộc, nó không bao giờ là vô nghĩa. Bởi trong đau thương ấy, có cả lòng quả cảm, sự hy sinh và khát vọng sống mãnh liệt của cả một dân tộc. Và chính điều đó, chứ không phải bất kỳ “nỗi buồn” nào khác mới là sự thật lớn nhất, thiêng liêng nhất của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

Nguyễn Cảnh Toàn