Thực tế lịch sử đã chứng minh, trong thời đại toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, tất cả các nước có xuất phát điểm thấp, muốn vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới không có con đường nào khác ngoài việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) gắn với phát triển kinh tế trí thức (KTTT). Đây chính là xu thế khách quan của thời đại toàn cầu hoá; đồng thời cũng là con đường “rút ngắn” của quá trình công nghiệp hoá theo hướng hiện đại nhằm chuyển nền kinh tế nông nghiệp thành nền kinh tế công nghiệp – tri thức – và nền KTTT.
Một số điểm mới về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay
Nước ta, tuy còn ở trong nền kinh tế nông nghiệp và là nước đang phát triển thu nhập thấp, nhưng biết phát huy đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ có năng lực tiếp thu và ứng dụng các công nghệ cao, qua chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, vẫn có thể có cơ hội rút ngắn thời gian để tiến nhanh hơn. Muốn vậy, phải đồng thời tiếp thu công nghệ cao của phát triển kinh tế tri thức và vận dụng ngay vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong các lĩnh vực cần thiết. Ví dụ phát triển các phần mềm hệ điều hành máy, có thể đem ứng dụng với sự điều chỉnh hợp lý, vào các máy trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hiện nay, tại các nước phát triển đều chứa đựng trong nó nhiều yếu tố của nền kinh tế tri thức, như nền công nghiệp công nghệ cao chiếm tỷ trọng lớn, lao động trí tuệ có chuyên môn kỹ thuật cao. Vì vậy, bước chuyển sang kinh tế tri thức là bước chuyển có tính tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật chung. Việt Nam là nước có nền kinh tế nông nghiệp đang tiến hành công nghiệp hóa để phát triển kinh tế tránh tụt hậu. Đội ngũ cán bộ khoa học của nước ta có khả năng tiếp cận và ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới. Trong quá trình công nghiệp hóa đất nước, nước ta đã đầu tư mạnh mẽ, khai thác ứng dụng những thành tựu mới của thời đại nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ phần mềm…Do vậy, chúng ta có cơ sở khoa học để đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ: chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và phát triển kinh tế tri thức.
Tại Việt Nam, Đảng ta xác định: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế – xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
Đại hội XIII của Đảng là đại hội của khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và đối tượng thụ hưởng thành quả này là nhân dân. Xuất phát từ mục tiêu này, tại Đại hội XIII, Đảng đã chỉ rõ quan điểm chỉ đạo trong giai đoạn 2021-2025 và những năm tiếp theo là: Bảo đảm trên hết và trước hết lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế – xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng – an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc;… thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Nếu ở Đại hội XII, khái niệm về kinh tế số chưa được nhắc đến, mà thay vào đó là kinh tế tri thức, thì ở Đại hội XIII, trong các văn kiện đều nhắc đi nhắc lại nhiều lần các thành tố: “đổi mới sáng tạo”, “chuyển đổi số”, “kinh tế số”, “xã hội số”… Và không phải đến Đại hội XIII, Đảng ta mới nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của nhiệm vụ “chuyển đổi số”, thực hiện “kinh tế số”, “xã hội số”, mà ngày 27-9-2019, Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nghị quyết đã đề ra một số mục tiêu cụ thể đến năm 2025: Duy trì xếp hạng về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) thuộc 3 nước dẫn đầu ASEAN. Xây dựng được hạ tầng số đạt trình độ tiên tiến của khu vực ASEAN; internet băng thông rộng phủ 100% các xã. Kinh tế số chiếm khoảng 20% GDP; năng suất lao động tăng bình quân trên 7%/năm. Cơ bản hoàn thành chuyển đổi số trong các cơ quan đảng, nhà nước, MTTQ, các tổ chức chính trị – xã hội. Thuộc nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN trong xếp hạng Chính phủ điện tử theo đánh giá của Liên hợp quốc. Có ít nhất 3 đô thị thông minh tại 3 vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, phía Nam và miền Trung.
Như vậy, Nghị quyết số 52-NQ/TW đã cơ bản sẽ tạo dựng các cơ chế, thuận lợi, rộng mở, thí điểm các cơ chế mới để mọi doanh nghiệp phát huy năng lực sáng tạo của mình với mục tiêu trước mắt là đến năm 2025, kinh tế số Việt Nam sẽ chiếm khoảng 1/5 GDP và thúc đẩy GDP Việt Nam tăng thêm khoảng 28-62 tỷ USD, tương đương mức tăng 7-16% GDP đến năm 2030. Và mục tiêu cụ thể đến năm 2030: Kinh tế số chiếm trên 30% GDP; năng suất lao động tăng bình quân khoảng 7,5%/năm. Hoàn thành xây dựng Chính phủ số. Hình thành một số chuỗi đô thị thông minh tại các khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc, phía Nam và miền Trung; từng bước kết nối với mạng lưới đô thị thông minh trong khu vực và thế giới… Chỉ 1 năm sau ngày Nghị quyết số 52-NQ/TW ra đời, vào cuối năm 2020, cả 3 nhà mạng điện thoại di động lớn trong nước đều đồng loạt công bố vùng phủ sóng, chính thức thử nghiệm kinh doanh dịch vụ 5G, đưa Việt Nam vào nhóm các quốc gia đầu tiên trên thế giới tiếp cận công nghệ này, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế số.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội đạt thành tựu quan trọng trên nhiều mặt. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt; dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng. Chính trị – xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững. Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định và tăng thêm nguồn lực cho phát triển đất nước.
Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Thế và lực của đất nước vững mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử ấy đã nâng cao tầm vóc và vị thế của đất nước ta, ngày càng được bạn bè quốc tế đánh giá cao và nhiệt tình ủng hộ. Tuy vậy, kinh tế phát triển chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của đất nước. Nền kinh tế chủ yếu vẫn dựa vào tài nguyên và lao động, giá trị do tri thức tạo ra không đáng kể; chưa khơi dậy và phát huy tối đa năng lực sáng tạo của con người; nền kinh tế còn chứa đựng nhiều yếu tố phát triển không bền vững, có nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước khác. Về cơ bản nước ta vẫn là nước chưa phát triển.
Là một nước nông nghiệp đi lên, trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế để phát triển, nền KTTT cần tiến hành đồng thời và lồng ghép của hai quá trình: quá trình chuyển từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp và quá trình chuyển từ kinh tế công nghiệp lên KTTT, trong đó nhất thiết phải bắc được những “nhịp cầu trung gian” để thực hiện những bước chuyển quá độ. Đây là cả một sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp.
Trong khi đối với các nước đi trước, để thực hiện bước chuyển này chỉ là hai quá trình kế tiếp nhau, còn đối với nước ta để thực hiện bước phát triển “rút ngắn” đòi hỏi phải kết hợp các bước đi tuần tự với các bước phát triển nhảy vọt. Một mặt, tận dụng lao động, cơ sở vật chất hiện có, sử dụng tri thức mới, công nghệ mới để phát triển sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập. Mặt khác, đi thẳng vào hiện đại ở những khâu, những lĩnh vực, những ngành có lợi thế, phát triển các ngành, các vùng kinh tế mũi nhọn tạo thành đầu tầu có sức kéo lôi mạnh toàn bộ nền kinh tế đi lên.
Bởi vậy, việc chuyển nền kinh tế theo hướng phát triển chủ yếu dựa vào tri thức trở thành yêu cầu cấp thiết, không thể trì hoãn. Bỏ lỡ thời cơ lớn này, Việt Nam sẽ tụt hậu xa hơn và đó là hiểm họa của dân tộc. Báo cáo chính trị tại Đại Hội X của Đảng đã chỉ ra: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN gắn với phát triển KTTT, coi KTTT là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại”.
Trong quá trình lãnh đạo đất nước đổi mới, Đảng ta luôn đưa ra những đường lối, chủ trương nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt trong bối cảnh phát triển kinh tế tri thức, Đảng ta coi đó là một trong những tiêu chí thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tuy nhiên trong từng thời kỳ, nhận thức của Đảng về vấn đề này cũng có những khác biệt và được điều chỉnh cho phù hợp với từng giai đoạn. Trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm và bài học thực tiễn của các kỳ đại hội trước, Đại hội Đảng lần thứ XIII đã cụ thể hóa, bổ sung phát triển và làm sáng tỏ thêm một số nội dung sau:
Thứ nhất, về đề mục, các văn kiện lần này, Báo cáo Chính trị tập trung đề cập ở mục VI, với tiêu đề: thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệ, so với Đại hội XII, tiêu đề thêm cụm từ: thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển giao và đặt lên trên để nhấn mạnh vai trò của đổi mới sáng tạo. Trong Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2021-2030, vấn đề được trình bày ở điểm 2, mục V- phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế- xã hội, với tiêu đề: phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. So với Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn 2010-2020, vấn đề này được trình bày ở điểm 10, mục IV- Định hướng phát triển kinh tế- xã hội, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, trong đó tiêu đề được xác định là: phát triển khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững.
Thứ hai, các văn kiện lần này tiếp tục làm rõ nội dung, yêu cầu: “Có chiến lược phát triển khoa học và công nghệ phù hợp xu thế chung của thế giới và điều kiện đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Tiếp tục quán triệt, thực hiện nhất quán chủ trương khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Thứ ba, đã cụ thể hóa hơn các ngành khoa học cần chú trọng trọng phát triển, đó là: khoa học tự nhiên, khoa học- kỹ thuật và công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn, đặc biệt, lần đầu tiên khoa học lý luận chính trị được nhấn mạnh đậm nét. Đồng thời, đề cập cụ thể hơn yêu cầu đối với các lĩnh vực khoa học, theo đó thúc đẩy phát triển mạnh mẽ khoa học xã hội và nhân văn để có cơ sở khoa học phục vụ tốt nhất sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế, xã hội. Khơi dậy sức sáng tạo, nâng cao trách nhiệm và tôn trọng sự khác biệt trong công tác nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn. Gắn kết chặt chẽ khoa học xã hội và nhân văn với khoa học tự nhiên và công nghệ trong quá trình triển khai các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Trong bối cảnh đất nước hiện nay, văn kiện Đảng lần này rất coi trọng ưu tiên chuyển giao, ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và phát triển con người, quốc phòng, an ninh trọng yếu. Rà soát, sắp xếp lại hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ gắn với đổi mới toàn diện chính sách nhân lực khoa học và công nghệ, ưu tiên thu hút nhân tài, các nhà khoa học có tâm huyết với công cuộc phát triển và bảo vệ đất nước.
Thứ tư, Văn kiện Đại hội XII mới nêu: tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức hoạt động khoa học và công nghệ. Văn kiện Đại hội XIII thay từ cơ chế bằng thể chế: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ thể chế, chính sách ứng dụng, phát triển khoa học và công nghệ. Chuyển đổi cơ chế đầu tư, quản lý tài chính khoa học và công nghệ theo nguyên tắc đặt hàng, dựa vào kết quả, hiệu quả cuối cùng. Các ngành, các cấp có trách nhiệm trong việc thúc đẩy phát triển và ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào lĩnh vực theo quy định. Nhấn mạnh, phạm vi tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế, nhất là nội dung liên quan đến đổi mới sáng tạo, cách mạng công nghiệp lần thứ tư để phát triển nền khoa học Việt Nam; phát triển mạnh khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, lấy doanh nghiệp làm trung tâm; thúc đẩy phát triển mô hình kinh doanh mới, kinh tế số, xã hội số. Cho phép thực hiện cơ chế thử nghiệm chính sách mới, thúc đẩy triển khai và ứng dụng công nghệ mới, đổi mới sáng tạo, mô hình kinh doanh mới. “Có cơ chế, chính sách kinh tế, tài chính khuyến khích các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ. Xác định rõ các chỉ tiêu, chương trình hành động để ứng dụng và phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong mọi mặt hoạt động ở các cấp, các ngành, địa phương.
Thứ năm, nhấn mạnh yêu cầu đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế, nâng cao năng lực đổi mới sáng tạoquốc gia, lấy nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển con người làm mục tiêu. Tháo gỡ kịp thời những vướng mắc, thực hiện tốt các chính sách về đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng và đãi ngộ đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, nhất là chuyên gia đầu ngành, nhân tài trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Tăng cường hợp tác và hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ. Có chính sách hỗ trợ hoạt động giao lưu, trao đổi học thuật quốc tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Đa dạng hoá hợp tác quốc tế, ưu tiên các đối tác chiến lược. Gắn hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ với mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội, quốc phòng và an ninh. Đồng thời, xác định rõ trọng tâm hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời gian tới, đó là: “Đẩy mạnh hội nhập và hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ, đa dạng hoá đối tác, lựa chọn đối tác chiến lược là các quốc gia có nền khoa học, công nghệ tiên tiến”, gắn kết chặt chẽ giữa hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ với hợp tác kinh tế quốc tế. Phát triển mạng lưới kết nối nhân tài người Việt Nam, thu hút sự tham gia đóng góp của cộng đồng các nhà khoa học người Việt Nam ở nước ngoài.
Thứ sáu, đã xác định rõ hơn nguyên tắc trong chuyển đổi cơ chế đầu tư, quản lý tài chính khoa học và công nghệ là: theo nguyên tắc đặt hàng, dựa vào kết quả, hiệu quả cuối cùng. Tăng cường đầu tư phát triển khoa học và công nghệ theo cơ chế thị trường trên cơ sở huy động hợp lý nguồn lực từ Nhà nước, doanh nghiệp và các cá nhân. Hỗ trợ khuyến khích các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu phát triển, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ. Các ngành, các cấp có trách nhiệm trong việc thúc đẩy phát triển và ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ. Trọng tâm đổi mới cơ chế hoạt động và tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động nghiên cứu, quản lý khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo. Lấy việc nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế là tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của khoa học, công nghệ. Tạo thuận lợi cho nghiên cứu, chuyển giao phù hợp với cơ chế thị trường, nâng cao tính tự chủ của các đơn vị nghiên cứu khoa học, công nghệ công lập. “Cơ cấu lại, nâng cao năng lực, hiệu quả các cơ sở nghiên cứu; đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công nghệ trong các doanh nghiệp, trường đại học, cơ sở đào tạo gắn với nhu cầu thị trường”. Đồng thời, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư nước ngoài hình thành các trung tâm nghiên cứu và triển khai, đổi mới sáng tạo tại Việt Nam. Tăng cường liên kết doanh nghiệp với các viện nghiên cứu, trường đại học, nâng cao năng lực của doanh nghiệp về tiếp thu, làm chủ và từng bước tham gia tạo ra công nghệ mới.
Quan tâm đầu tư đúng mức nghiên cứu khoa học cơ bản; tập trung nghiên cứu, ứng dụng công nghệ lõi, công nghệ số. Cơ cấu lại các chương trình, nhiệm vụ khoa học, công nghệ, gắn với nhu cầu xã hội, chuỗi giá trị của sản phẩm, tạo giá trị gia tăng. Lựa chọn và tập trung hỗ trợ triển khai nghiên cứu, ứng dụng phát triển công nghệ cho một số ngành và lĩnh vực then chốt. Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, triển khai, trong đó chú trọng nghiên cứu ứng dụng và thương mại hóa kết quả. Đổi mới căn bản cơ chế quản lý ngân sách nhà nước chi cho khoa học, công nghệ; thực hiện cơ chế Nhà nước đặt hàng nghiên cứu các đề tài khoa học, công nghệ.
Sau hơn 25 năm vượt qua các thử thách và khó khăn to lớn, tiến hành công cuộc đổi mới trên mọi mặt, đến nay Việt Nam có đủ cơ sở để khẳng định rằng, đổi mới là sự lựa chọn đúng đắn, đã đặt Việt Nam vào quỹ đạo phát triển mới về chất, phù hợp với xu thế của thời đại và ý nguyện của nhân dân. Ngày nay, công cuộc đổi mới đã chuyển sang giai đoạn phát triển mới: Đổi mới và hội nhập; đổi mới để giữ vững ổn định chính trị một cách tích cực cho phát triển bền vững; đổi mới hệ thống chính trị phải tương thích với đổi mới kinh tế nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân và đổi mới tạo nền tảng để nước ta sớm cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Bên cạnh những thành tích đã đạt, thì hiện nay chúng ta vẫn còn những hạn chế, yếu kém như:
Một số chỉ tiêu lớn về khoa học và công nghệ được nêu trong các văn bản quản trọng của Đảng, Nhà nước chưa đạt được yêu cầu, như đến năm 2020, khoa học và công nghệ Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN; tác động của khoa học, công nghệ đối với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu còn hạn chế. Năng suất lao động trong nhiều ngành kinh tế của Việt Nam còn rất thấp. Chưa thực sự có giải pháp đột phát trong phát triển nội bộ ngành. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách về phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ còn hạn chế, nhất là công nghệ cao.
Tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng cơ chế, chính sách cán bộ trong hoạt động khoa học và công nghệ còn nặng về hành chính, chưa tạo được môi trường thuận lợi để phát huy sức sáng tạo, thu hút nhân tài. So với yêu cầu phát triển của đất nước, đầu tư cho khoa học và công nghệ còn thấp, chưa hiệu quả. Hệ thống thông tin, thống kê khoa học và công nghệ chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phục vụ việc xây dựng chiến lược, chính sách. Bảo hộ sở hữu trí tuệ chưa đạt yêu cầu. Chưa gắn kết chặt chẽ khoa học tự nhiên, khoa học- công nghệ và khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị…
Căn cứ vào các chỉ số đánh giá về mức phát triển kinh tế tri thức của Ngân hàng thế giới, nếu so sánh nước ta với nhóm các nước công nghiệp phát triển cao (OECD) thì nước ta có một số ít chỉ số đạt khá như tăng trưởng GDP hằng năm, chỉ số phát triển con người (HDI), vốn đầu tư từ nước ngoài (FDI)… Nhưng nhìn chung vẫn còn thấp kém so với nhiều nước trên thế giới và khu vực, nhất là chỉ số phát triển nguồn nhân lực, phát triển và đổi mới công nghệ, ứng dụng công nghệ cao, tăng sức cạnh tranh, phát triển công nghệ thông tin và truyền thông…
Trong vài ba thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, để thực hiện có kết quả bước phát triển “rút ngắn” sớm xác lập nền KTTT Việt Nam, cần thiết phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó cần tập trung toàn lực vào việc thực hiện những giải pháp mang tính đột phá sau:
Thứ nhất, đổi mới cơ chế, chính sách, tạo lập một khuôn khổ pháp lý mới phù hợp với sự phát triển nền kinh tế tri thức. Xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế tri thức giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2045. Chiến lược cần đánh giá đúng thực trạng, xác định rõ quan điểm phát triển kinh tế tri thức, chỉ rõ mô hình, mục tiêu, khâu đột phá và định hướng phát triển kinh tế tri thức, đồng thời tổ chức thực hiện có hiệu quả các nội dung đề ra.
Thứ hai, phát triển mạnh nguồn lao động chất lượng cao, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài. Tăng nhanh đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học – kỹ thuật và công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ quản lý, doanh nhân… Tập trung đào tạo nghề đạt chuẩn quốc tế đối với 8 lĩnh vực ngành nghề được tự do di chuyển theo thỏa thuận trong khuôn khổ Cộng đồng Kinh tế ASEAN.
Thứ ba, tăng cường năng lực khoa học – công nghệ quốc gia để có thể tiếp thu, làm chủ, vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học – công nghệ mới nhất của thế giới cần thiết cho phát triển của đất nước, từng bước sáng tạo công nghệ đặc thù của đất nước, xây dựng nền khoa học – công nghệ tiến tiến của Việt Nam.
Thứ tư, đầu tư phát triển mạnh mẽ hạ tầng công nghệ thông tin; đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghệ thông tin là chìa khóa để đi vào kinh tế tri thức.
Thứ năm, ban hành các cơ chế, chính sách để hoàn thiện hệ sinh thái khởi nghiệp, hỗ trợ, khuyến khích, thúc đẩy DN đầu tư cho khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Cơ chế, chính sách vừa khuyến khích vừa đặt ra yêu cầu cho các DN phải luôn đổi mới dựa trên công nghệ mới và thúc đẩy nhanh chóng sự ra đời các DN mới, nhất là các DN kinh doanh sản phẩm mới, công nghệ mới. Ban hành Chương trình xây dựng Thành phố trở thành đô thị thông minh. Đặc biệt, nghiên cứu, xây dựng quy hoạch Khu đô thị sáng tạo Bên cạnh đó, phải ban hành nhiều cơ chế, chính sách thúc đẩy các nghiên cứu khoa học công nghệ gắn với cuộc sống, hoàn thiện hệ sinh thái khởi nghiệp, hệ sinh thái đổi mới sáng tạo; đưa nội dung đào tạo công nghệ thông tin, kỹ năng số vào các chương trình đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng nguồn nhân lực số, hình thành đội ngũ chuyên gia và kỹ thuật viên đủ chuẩn quốc tế.
Thứ sáu, không ngừng cải cách, đổi mới để đảm bảo vai trò dẫn dắt, quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế. Cần có cơ chế đặc thù để các khu công nghệ cao, khu công viên phần mềm phát huy vai trò là trung tâm đổi mới sáng tạo. Trên cơ sở đó, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng hàm lượng tri thức, tập trung phát triển các ngành công nghệ cao, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu; từng bước thoát dần bẫy thu nhập trung bình.
Thứ bảy, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế nhằm tranh thủ nguồn ngoại lực, kết hợp nội lực để bắt kịp xu thế phát triển khoa học công nghệ tiên tiến, phục vụ cho mục tiêu hiện đại hóa lực lượng sản xuất của đất nước.
Ứng dụng và phát triển công nghệ mới, ưu tiên phát triển kinh tế số, công nghệ số, kết nối 5G và sau 5G, trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối (blockchain), in 3D, Internet vạn vật, an ninh mạng, năng lượng sạch, công nghệ môi trường để chuyển đổi, nâng cao năng suất, hiệu quả của nền kinh tế. Phát triển mạnh khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo là động lực chính của tăng trưởng kinh tế. Thực hiện chuyển đổi số trong trị quốc gia, quản lý nhà nước, sản xuất, kinh doanh, tổ chức xã hội.
Năm 2020 và 2021, dịch Covid-19 bùng phát mạnh mẽ, gây tác hại lớn đến nền kinh tế và làm tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe cũng như sinh mệnh con người. Để thực hiện được những mục tiêu kép, trong giai đoạn từ nay đến năm 2025, chúng ta phải có mô hình công dân học tập về những kỹ năng số theo yêu cầu chuyển đổi số quốc gia. Công dân học tập không thể thiếu kỹ năng truy cập tri thức khoa học, kỹ thuật, công nghệ, kể cả tri thức phòng, chống dịch Covid-19 trên mạng internet hay kỹ năng sử dụng các công nghệ để thực hiện học tập trực tuyến, mua bán và giao dịch trên mạng, vui chơi giải trí trên các thiết bị điện tử thông minh. Đáng chú ý là Công dân học tập cần kỹ năng thực thi những quy định về hành vi trên mạng thông tin, bảo vệ sức khỏe số…
Ngoài ra, ngay lúc này, Công dân học tập còn cần phải có cả những kỹ năng phòng, chống dịch Covid-19. Có thể kể đến như kỹ năng thực hiện quy tắc 5K, quy tắc 5T, kỹ năng theo dõi tình hình dịch bệnh, nắm bắt những thông tin về những biến thể của Covid-19, cơ chế lây lan dịch bệnh, tác dụng của vaccine hay thậm chí cả kỹ năng sử dụng các phần mềm như Bluezone, sổ sức khỏe điện tử…Công dân học tập với tri thức khoa học về dịch bệnh, ý chí của từng cá nhân trong chống dịch bệnh và sự gắn kết, sự đồng thuận của con người trong cộng đồng khi đối đầu với SARS-CoV-2 cũng là chất liệu quan trọng xây dựng “bức tường lửa” vô hình nhưng kiên cố. Sức mạnh chống lại dịch bệnh tùy thuộc vào tri thức và ý chí của từng công dân, của từng gia đình và dòng họ hay các cơ quan, đoàn thể, doanh nghiệp và trường học. Tri thức cùng ý chí ấy chỉ có thể đến với chúng ta khi cả nước trở thành một xã hội học tập giúp nền Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta theo hướng hiện đại ngày càng phong phú, đa dạng và thành công bền vững hơn.
Vai trò của kinh tế tri thức, kinh tế số, đặc biệt là khoa học và công nghệ có vị trí then chốt, có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện vai trò to lớn trong định hướng phát triển đất nước, ở thời điểm chuẩn bị kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, hướng tới kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 – Việt Nam trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ths. Chúc Kim Vinh – Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Phát Triển Kinh Tế Xã Hội