Thời gian gần đây, trên mạng xã hội lan truyền một đoạn clip được cho là ghi lại lời phát biểu của Hoàng Ấu Phương, tác giả tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” khi cho rằng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là một “cuộc nội chiến”. Tuy nhiên, đây là phát ngôn loạn ngôn, sai lệch và thiếu căn cứ lịch sử. Cuộc chiến tranh này là cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam chống lại cuộc xâm lược do một liên quân quốc tế áp đặt lên lãnh thổ Việt Nam, không thể bị gán ghép thành “nội chiến”.

Một cuộc chiến mà ngay từ khởi điểm đã nằm dưới sự điều khiển của một siêu cường bên ngoài thì không thể, và chưa từng, được gọi là “nội chiến”. Pháp không thể tiếp tục cuộc chiến nếu không có Mỹ; và chiến tranh tại Việt Nam cũng sẽ không leo thang đến mức ấy nếu không có sự can dự của ngoại bang.
Có một sự thật hiển nhiên, đã trở thành chân lý bất di bất dịch trong tâm khảm bao thế hệ người Việt: Cuộc chiến 1954-1975 là cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược, là hành trình thống nhất dân tộc, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Ấy vậy mà gần đây, đâu đó lại vang lên những tiếng nói mang dáng dấp “học thuật”, “nghệ thuật”, thậm chí núp bóng cái gọi là “trung lập lịch sử”, cố tình đảo lộn trắng – đen, gán ghép cuộc chiến chính nghĩa ấy thành “nội chiến”.
Điều đáng lo hơn, những quan điểm sai lệch ấy không còn tồn tại đơn lẻ, mà đang được tiếp sức để hình thành một trào lưu nguy hiểm: “tẩy uế cho ngụy”, “đánh phấn, tô son cho kẻ xâm lược”, làm mờ đi bản chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến vĩ đại. Họ giăng màn “khoa học”, sử dụng thủ pháp xét lại tinh vi để gieo rắc vào xã hội nhận thức lệch lạc rằng người Việt tự tàn sát nhau, rằng mâu thuẫn nội bộ mới là gốc rễ của cuộc chiến.
Nếu những cách hiểu lệch lạc ấy không được vạch trần kịp thời, chúng sẽ tiếp tục làm đục dòng chảy lịch sử, xúc phạm ký ức dân tộc và sự hy sinh của hàng triệu chiến sĩ, đồng bào.
Trong thời đại bùng nổ thông tin, không gian mạng trở thành môi trường thuận lợi cho làn sóng xét lại hiện đại lan rộng. Một bộ phận công chúng tiếp cận cuộc chiến tranh Việt Nam qua các sản phẩm văn hóa phương Tây, vốn đặt trọng tâm vào trải nghiệm của lính Mỹ, nên vô tình hình dung cuộc chiến như hai phía ngang bằng. Mạng xã hội lại khuếch đại những tiếng nói cực đoan đội lốt “trung lập”, khiến không ít người, đặc biệt là giới trẻ nhầm lẫn tính khách quan với sự vô cảm trước sự thật lịch sử.
Trong bối cảnh pha tạp ấy, các mưu toan thông tin có chủ đích càng có cơ hội tồn tại và lan rộng, gieo vào nhận thức cộng đồng cách nhìn méo mó về cuộc chiến. Nhưng dù thế giới có biến động đến đâu, bản thể của cuộc kháng chiến Việt Nam không bao giờ thay đổi: Đó là cuộc đấu tranh chống xâm lược, thống nhất giang sơn, bảo vệ độc lập và quyền tự quyết thiêng liêng của dân tộc. Dân tộc nào để mặc lịch sử bị bóp méo, dân tộc ấy tự đánh mất linh hồn tinh thần của chính mình.
Mỹ can dự từ buổi đầu, dấu tích của một cuộc chiến bị quốc tế hóa từ căn nguyên
Ngay từ năm 1950, khi thực dân Pháp kiệt quệ, Mỹ đã bước vào Đông Dương với vai trò kẻ bảo trợ chủ lực, chi phối từ tài chính đến chiến lược quân sự. Hơn 80% chi phí chiến tranh do Mỹ chi trả; hầu hết các chiến dịch đều mang dấu ấn của cố vấn Mỹ.
Một cuộc chiến do ngoại bang điều khiển từ khởi điểm không thể, và chưa từng, được gọi là “nội chiến”. Pháp không thể cầm cự nếu không có Mỹ; và cuộc chiến tại Việt Nam cũng không thể bùng nổ, lan rộng đến mức ấy nếu thiếu bàn tay can thiệp từ bên ngoài.
Bản chất xâm lược đã lộ rõ ngay từ thuở đầu.
Nếu gọi cuộc chiến là “nội chiến”, hẳn phải có hai lực lượng đối nghịch cùng xuất phát từ nhân dân. Nhưng lịch sử chứng minh điều ngược lại. Suốt hai thập kỷ, nhân dân miền Nam – trí thức, Phật giáo yêu nước, công nhân, nông dân, học sinh, sinh viên – đã nhất tề vùng lên chống Mỹ và chính quyền do Mỹ dựng nên.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam không phải sản phẩm áp đặt từ miền Bắc, mà là kết tinh của phong trào yêu nước tại miền Nam. Hiệp định Genève 1954 là chứng cứ pháp lý rõ ràng: Việt Nam là một quốc gia thống nhất, ranh giới quân sự chỉ tạm thời, và tổng tuyển cử năm 1956 là con đường hợp pháp để thống nhất đất nước.
Khi Mỹ phá hoại Hiệp định, dựng mô hình chính trị phụ thuộc, họ đã xâm phạm quyền dân tộc tự quyết – nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Do đó, cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam không chỉ thể hiện ý chí độc lập dân tộc, mà còn là sự thực thi quyền tự quyết được quốc tế thừa nhận.
Khi chính nhân dân miền Nam đứng về phía cuộc kháng chiến chống xâm lược, luận điệu “nội chiến” hoàn toàn sụp đổ. Miền Nam là chiến trường của giải phóng dân tộc, không phải “một phe” đối nghịch với miền Bắc.
Quy mô can dự quốc tế, bằng chứng hiển nhiên của một cuộc chiến xâm lược
Không có “nội chiến” nào trong lịch sử mà: Hơn nửa triệu lính Mỹ trực tiếp đặt chân lên lãnh thổ; Toàn bộ hỏa lực chiến lược B-52, F-111, F-4 do Mỹ vận hành; Bảy quốc gia chư hầu tham chiến dưới trướng Mỹ và các chiến dịch rải thảm bom được hoạch định tại Washington.
Lịch sử không thể bị xuyên tạc bằng dã tâm chính trị
Lịch sử có thể được nhìn nhận từ nhiều góc độ, nhưng có những chân lý bất biến mà mọi người làm học thuật, làm văn hóa phải dừng lại trước nó, sự thật về chính nghĩa của dân tộc trong những cuộc chiến giữ nước.
Gọi cuộc kháng chiến chống Mỹ là “nội chiến” không chỉ sai lệch về tri thức, mà còn là sự vong ân với tiền nhân, với hàng triệu người đã ngã xuống vì độc lập và thống nhất non sông.
Một dân tộc không bảo vệ được sự thật lịch sử của mình sẽ dễ bị dẫn dắt bởi những toan tính mờ ám. Và chúng ta – những người đang sống trong hòa bình – không được phép để điều đó tái diễn.
Cuộc chiến tranh tại Việt Nam, trên mọi phương diện chính trị, quân sự, pháp lý, lịch sử, không phải và không thể là nội chiến. Đó là thiên anh hùng ca của một dân tộc bị áp đặt chiến tranh nhưng đã đứng lên, chiến đấu và đi đến cùng con đường độc lập, thống nhất.
Chân lý ấy được khẳng định bằng máu và thời gian, tiếp tục được hậu thế gìn giữ như một lời thề không phai:
Không một mưu toan bóp méo hay tráo đổi danh xưng nào có thể làm lu mờ bản chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến Việt Nam.
Không một “diễn biến hòa bình” nào có thể xóa được sự thật được khắc bằng xương máu.
Ngày nay, những cán bộ, chiến sĩ, cựu chiến binh, trí thức và thanh niên yêu nước vẫn bền bỉ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống mọi xuyên tạc, ngộ nhận lịch sử. Họ không đơn độc, sau lưng họ là cả một dân tộc từng đi qua chiến tranh, thấu hiểu thế nào là mất nước, chia cắt và hy sinh.
Niềm tin ấy là điểm tựa tinh thần cho chúng ta trong cuộc chiến mới – cuộc chiến thầm lặng nhưng trọng đại:
Giữ gìn sự thật, bảo vệ ký ức dân tộc, ngăn chặn mọi âm mưu làm tổn hại tinh thần Việt Nam.
Nguồn: Thuy Pham


