Thứ Ba, Tháng 7 15, 2025
* Email: bbt.dongnama@gmail.com *Tòa soạn: 0989011688 - 0768908888
spot_img

Đại tá, Nhà báo, AHLLVT Đặng Thọ Truật : Cầm súng và Cầm bút



ĐNA -

Ngày 12/10/2015, Sư đoàn 324 (Quân khu 4) tổ chức Lễ trao tặng danh hiệu cao quý Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân cho Đại tá Đặng Thọ Truật. Ông từng là chiến sĩ Quân Giải phóng, phóng viên, biên tập viên kỳ cựu của Ban Đại diện phía Nam báo Quân đội Nhân dân, người đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp báo chí cách mạng và đấu tranh giải phóng dân tộc. Danh hiệu được trao không chỉ là sự ghi nhận xứng đáng cho những đóng góp to lớn của ông trong thời chiến, mà còn là niềm tự hào đối với những người làm báo quân đội hôm nay.

Đại tá Phùng Kim Lân, Phó tổng biên tập Báo QĐND chúc mừng Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Đặng Thọ Truật. Ảnh: báo QĐND.

Đại tá Đặng Thọ Truật sinh ngày 28/8/1951, quê ở xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Ông nhập ngũ ngày 28/6/1968, bắt đầu huấn luyện tại Đại đội 1, Tiểu đoàn 70 súng máy phòng không 12,7mm thuộc Tỉnh đội Nghệ An. Sau quá trình huấn luyện, ông được điều động về chiến đấu tại Đại đội 3, Tiểu đoàn 54, Sư đoàn 324.

Tháng 11/1968, đơn vị của ông nhận lệnh hành quân vào chiến trường. Xuất phát từ Nghệ An, các chiến sĩ hành quân bộ qua Quảng Bình, sang đất bạn Lào rồi trở lại chiến đấu tại chiến trường Thừa Thiên. Tại Nam Lào, trong trận đánh đầu tiên, ông cùng đồng đội đã bắn rơi một máy bay địch. Ngay sau đó, ông trực tiếp tham gia trận đánh ác liệt trong Chiến dịch Abia, chiến dịch mà báo chí Mỹ gọi là “ngọn đồi thịt băm” đối với binh lính Mỹ.

Tại điểm cao 935 thuộc Thừa Thiên – Huế, ông giữ vai trò xạ thủ số 1, trực tiếp bắn rơi 5 máy bay Mỹ, trong đó có một chiếc phản lực F4H. Trận đánh này góp phần tiêu diệt một trung đoàn thiếu của quân đội Mỹ. Sau 23 ngày đêm chiến đấu liên tục, chiến dịch kết thúc thắng lợi. Với chiến công xuất sắc, ông được tặng thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Ba, cùng danh hiệu Dũng sĩ diệt máy bay và Dũng sĩ diệt Mỹ.

Tại điểm cao 935 thuộc chiến trường Thừa Thiên – Huế, ông giữ vị trí xạ thủ số 1 và đã lập chiến công đặc biệt xuất sắc: trực tiếp bắn rơi 5 máy bay Mỹ, trong đó có một chiếc phản lực F4H. Trận đánh quyết liệt này góp phần tiêu diệt một trung đoàn thiếu của quân đội Mỹ, tạo bước đột phá quan trọng cho toàn chiến dịch. Sau 23 ngày đêm chiến đấu liên tục và đầy gian khổ, chiến dịch giành thắng lợi vang dội. Với những chiến công xuất sắc, ông được Nhà nước trao tặng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Ba, cùng danh hiệu Dũng sĩ diệt máy bay và Dũng sĩ diệt Mỹ, những phần thưởng xứng đáng cho tinh thần quả cảm, mưu trí và ý chí chiến đấu kiên cường của người lính.

Cô Pung là một dãy núi cao hiểm trở nằm trên địa bàn A Sầu – A Lưới (tỉnh Thừa Thiên – Huế), với đỉnh cao nhất đạt độ cao 1.650 mét. Năm 1968, quân đội Mỹ từng chiếm đóng điểm cao 1478 trong khu vực này để thiết lập bàn đạp tiến công ra hướng Tây Bắc Thừa Thiên, nhằm tập kích hậu cứ, phá hoại khu vực hậu cần và cắt đứt tuyến tiếp tế của ta.

Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh nhận định Sư đoàn Kỵ binh bay của Mỹ có thể mở cuộc hành quân bằng trực thăng vận, đổ quân xuống khu vực Cô Pung hoặc điểm cao 1478. Lệnh được ban ra cho Sư đoàn 324: chủ động đón lõng, tổ chức đánh chặn, tuyệt đối không để địch triển khai đội hình chiến đấu. Đại tá Đặng Thọ Truật, khi ấy là xạ thủ số 1, được giao nhiệm vụ lên điểm cao đối diện với 1478 để tổ chức phục kích. Phương án tác chiến đặt ra: nếu địch đổ quân tại điểm cao 1478 thì lập tức nổ súng đánh trả, nếu chúng đổ bộ lên đỉnh Cô Pung thì nhanh chóng cơ động lên tiêu diệt.

Trong 4 ngày cuối tháng 7/1970, địch sử dụng 27 lượt máy bay B-52 rải thảm dọc theo dãy núi Cô Pung đến điểm cao 1478. Cùng lúc, chúng ném bom phát quang đỉnh Cô Pung nhằm mở rộng bãi đáp. Ngay sau đó, một tốp trực thăng ba chiếc xuất hiện, lượn vòng nhiều lượt trên không phận điểm cao 1478. Một chiếc từ từ hạ độ cao chuẩn bị đáp xuống, hai chiếc còn lại bay rất thấp để quan sát, trinh sát và “dọn bãi” phục vụ đổ bộ.

Khoảng 11 giờ trưa, từng tốp trực thăng UH-1 của Sư đoàn Kỵ binh bay Mỹ xuất phát từ sân bay Phú Bài (Huế) lần lượt bay lên khu vực Cô Pung và đổ quân xuống điểm cao 1478. Hồi tưởng lại khoảnh khắc cam go ấy, Đại tá Đặng Thọ Truật kể: “Lúc đó, chúng tôi quyết định đợi đến khi địch đổ bộ được bốn chiếc trực thăng rồi mới nổ súng. Làm như vậy, buộc chúng phải tiếp tục đưa quân xuống để ứng cứu nhau, đồng thời không dám tổ chức dọn bãi tiếp.”

Với quyết định chiến thuật chính xác, bộ đội ta giữ được yếu tố bất ngờ và bảo toàn lực lượng. Ngay loạt bắn đầu tiên, ba viên đạn 12,7mm từ súng của ông đã trúng một chiếc UH-1, khiến máy bay rơi tại chỗ. Các máy bay tiếp theo lần lượt bị ông điểm xạ ba viên, nhắm bắn chính xác. Chỉ trong vòng 10 phút đầu tiên, năm chiếc trực thăng đã bị bắn hạ tại chỗ. Trước tình thế bất ngờ, địch hoảng loạn kêu gọi chi viện, điều động máy bay phản lực và trực thăng vũ trang trút hỏa lực dày đặc xuống dãy Cô Pung. Tuy nhiên, nhờ lợi thế địa hình hiểm trở, khu vực rừng núi, sườn dốc hình yên ngựa cùng với vị trí trận địa hợp lý, lực lượng ta vẫn an toàn.

Sau đợt bắn phá, địch tiếp tục đưa quân đổ bộ, nhưng liên tục bị khẩu đội của ông đánh trả quyết liệt. Đến chiếc máy bay thứ 31, khẩu súng 12,7mm do ông là pháo thủ số 1 bị gãy díp tiếp đạn, không thể sửa chữa tại chỗ. Trước tình thế đó, ông cùng đồng đội nhanh chóng cử hai người trở về báo cáo chỉ huy Trung đoàn Bộ binh 1, đồng thời tổ chức lại thế trận mai phục, bẻ gãy các đợt tấn công và tiêu diệt hơn 25 tên giặc Mỹ.

Anh hùng LLVT đại tá Đặng Thọ Truật

Chiến thắng vang dội tại Cô Pung không chỉ gây tiếng vang trên chiến trường mà còn ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng đồng đội. Ngay sau trận đánh, ông Bạch Ngọc Liễn, Chủ nhiệm Pháo binh Quân khu đã trực tiếp xuống đơn vị để động viên, khen thưởng. Đại tá Đặng Thọ Truật xúc động kể lại: “Khi tôi về, mọi người rất vui mừng. Ông Liễn đến bắt tay rồi nói: ‘Vừa rồi, nghe đài kỹ thuật của địch báo cáo lên cấp trên rằng Sư đoàn Anh cả đỏ (Mỹ) tổ chức đổ bộ lên Cô Pung thì bị Quân giải phóng bắn rơi tại chỗ 13 máy bay, làm hư hỏng 11 chiếc và bị phản kích tiêu diệt 25 tên. Đó còn chưa kể số binh lính chết ngay trong các máy bay bị bắn rơi.”

Với chiến công xuất sắc trên cương vị xạ thủ số 1, trực tiếp bắn rơi nhiều máy bay địch, ông được tặng thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Nhì. Đại đội 3 và Tiểu đoàn 54 cũng được trao tặng Huân chương Quân công Giải phóng và Cờ “Đơn vị Anh dũng diệt Mỹ”.

Không dừng lại ở đó, sau chiến thắng Cô Pung, ông tiếp tục cùng đơn vị tham gia Chiến dịch Cốc Bai và trực tiếp bắn hạ thêm một chiếc trực thăng địch. Cuối năm 1970, những cống hiến không ngừng nghỉ của ông được ghi nhận bằng 2 Huân chương Chiến công Giải phóng, 3 danh hiệu Dũng sĩ diệt máy bay và 2 danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ những phần thưởng cao quý dành cho người lính kiên trung, gan dạ trên tuyến đầu đánh Mỹ.

Bước sang năm 1971, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bước vào giai đoạn khốc liệt và quyết liệt hơn bao giờ hết. Trong bối cảnh đó, Đại tá Đặng Thọ Truật cùng đơn vị hành quân tham gia Chiến dịch Đường 9 – Nam Lào, một chiến dịch chiến lược có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Với bản lĩnh vững vàng, tinh thần chiến đấu quả cảm và kinh nghiệm dày dạn, ông cùng Khẩu đội 2, Trung đội 1, Đại đội 3, Tiểu đoàn 54 đã kiên cường bám trụ trận địa, đánh trả quyết liệt các đợt không kích của địch, trực tiếp bắn rơi 6 máy bay Mỹ.

Tổng kết chiến dịch, ông cùng tập thể Khẩu đội 2 được tặng thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Ba. Riêng cá nhân ông được trao danh hiệu Dũng sĩ diệt máy bay, Dũng sĩ diệt Mỹ, vinh dự được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam và được bầu chọn là Chiến sĩ thi đua.

Từ tháng 2/1972, trên cương vị Khẩu đội trưởng Khẩu đội 2, ông tiếp tục chỉ huy đơn vị lập nhiều chiến công xuất sắc. Nổi bật là trong chiến dịch giải phóng Quảng Trị và các trận đánh giữ vững tuyến phòng ngự chiến lược trên Đường 12, tây nam Huế. Tại đây, khẩu đội do ông chỉ huy đã chiến đấu kiên cường, giữ vững trận địa và bắn rơi 3 máy bay địch.

Đến tháng 10/1972, khẩu đội của ông được lệnh chốt giữ tại dốc Lồ Ô, huyện Phong Điền (Thừa Thiên – Huế). Tại đây, ông và đồng đội tiếp tục lập công, bắn rơi 1 máy bay UH-1B của Mỹ, góp phần bảo vệ vững chắc vùng giải phóng và giữ vững thế trận phòng ngự của ta.

Tiểu đoàn 16 SMPK12,7mm, Sư đoàn 324, Quân khu 4 (28/6/1968 – 28/6/2025).

Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, Đại tá Đặng Thọ Truật tiếp tục hành trình cống hiến trên mặt trận mới. Ông được điều động về Quân đoàn 3, sau đó được cử đi học đại học chuyên ngành báo chí và xuất sắc đỗ thủ khoa. Ở tuổi 35, ông là người duy nhất trong khóa học được Bộ Quốc phòng lựa chọn và điều động về công tác tại Báo Quân đội nhân dân.

Không lâu sau, ông được phân công vào Thành phố Hồ Chí Minh, đảm nhiệm vai trò phóng viên, biên tập viên của Báo Quân đội Nhân dân tại Ban đại diện phía Nam. Trên hành trình cầm bút, nhà báo, chiến sĩ, ông Đặng Thọ Truật đã để lại nhiều dấu ấn sâu sắc qua những bài viết giàu suy tư, nhiệt huyết, phản ánh tâm huyết của một người từng trải trận mạc và đầy trăn trở với đời sống quân đội, xã hội.

Người đọc nhắc đến ông với sự kính trọng qua những bài báo, tiểu luận được gọi là “bài viết có lửa”, như: “Được về hưu và phải phục viên”, “Học thêm thành nhọc thêm”, “Trăm sự nhờ thầy”… Những tác phẩm ấy không chỉ thể hiện tư duy sắc sảo, mà còn phản ánh tinh thần dấn thân, trách nhiệm của người làm báo quân đội.

Đặc biệt, bài viết “Chất lượng đảng viên nhập ngũ ở Đồng bằng sông Cửu Long, một vấn đề đáng quan tâm”, một phóng sự điều tra công phu, được đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng số tháng 11/2000 đã đoạt giải B trong Giải Báo chí toàn quốc về “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh và công tác xây dựng Đảng”. Đây là sự ghi nhận xứng đáng cho những nỗ lực không mệt mỏi của ông trên mặt trận tư tưởng – văn hóa.

Ngày 10/8/2015, Đại tá, nhà báo Đặng Thọ Truật được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân”

Từ người lính xạ thủ quả cảm giữa chiến trường ác liệt, đến người cầm bút sắc sảo trên mặt trận tư tưởng, Đại tá, nhà báo Đặng Thọ Truật đã để lại dấu ấn đậm nét trong cả hai lĩnh vực: chiến đấu và báo chí. Dù ở bất cứ vị trí nào, ông cũng luôn thể hiện tinh thần trách nhiệm, bản lĩnh kiên cường và trái tim đầy nhiệt huyết vì Tổ quốc, vì nhân dân. Cuộc đời ông là minh chứng sinh động cho hình ảnh người chiến sĩ cách mạng không ngừng cống hiến, chiến đấu bằng súng trong thời chiến và bằng ngòi bút trong thời bình. Một tấm gương sáng để thế hệ hôm nay và mai sau noi theo, học hỏi và trân trọng.

Thế Nguyễn