Thứ tư, Tháng mười hai 11, 2024
* Email: bbt.dongnama@gmail.com *Tòa soạn: 0989011688 - 0768908888
spot_img

Đại tá Trần Hiệu, Nhà báo, Cục Trưởng Cục tình báo đầu tiên của Việt Nam

ĐNA -

Ngày 20/1/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh số: 108/SL cử ông Trần Hiệu làm Cục trưởng Cục Tình báo thuộc Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia Việt Nam. Người có cặp mắt nhìn ra tố chất của chỉ huy tình báo Mười Hương chính là Đại tá Trần Hiệu, Cục trưởng Cục Tình báo đầu tiên, nguyên Giám đốc Nha Liên lạc của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNCDCH), nguyên Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao.

Các nhà tình báo nổi tiếng của Việt Nam trong một lần gặp mặt. Hàng dưới, từ trái qua: Ông Vũ Ngọc Nhạ, ông Trần Hiệu (tức Hoàng Mỹ), ông Trần Quốc Hương. Hàng trên (người thứ 2 và 3) từ trái qua: ông Hà Mai và ông Phạm Xuân Ẩn

Ông tên thật là Vũ Văn Địch, sinh năm 1914, có bí danh là Trần Hiệu, Hoàng Mỹ, ở Phúc Lâm, Mỹ Đức, Hà Nội, Gia đình ông là nông dân. Năm 12 tuổi, ở ngay trường làng, cậu bé Địch đã hăng hái tham gia Lễ Truy điệu nhà chí sĩ Phan Chu Trinh. Ra Hà Nội học ở trường Bờ sông, khi chỉ mới là học sinh lớp nhì, Vũ Văn Địch đã được kết nạp vào Tổ chức Thanh niên Cộng sản. Học hết đệ nhất cấp, ông đi học nghề thợ nguội ở Hà Nội rồi tới năm 1935, xuống Hải Phòng học nghề sửa chữa ô tô ở Trường Kỹ nghệ thực hành. Chính tại đó, Trần Hiệu đã tham gia làm báo bí mật.

Năm 1936, Trần Hiệu bị đuổi học vì những hoạt động cách mạng. Ông lên Hà Nội tham gia hoạt động trong Phong trào Mặt trận Dân chủ, Hội Ái hữu và Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương. Năm 1937, ông được giao Phụ trách Phòng Quản trị tờ báo Thế giới, một trong ba tờ báo chính của Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương. Năm 1938, ông được các ông Trường Chinh, Đào Duy Kỳ giới thiệu vào Đảng Cộng sản Đông Dương.

Hành tung hoạt động sôi nổi tích cực của ông Trần Hiệu lọt vào vòng ngắm của mật thám Pháp. Năm 1939, ông Trần Hiệu bị chính quyền thực dân bắt giữ, kết án đưa lên giam ở nhà tù Sơn La. Trong tù, ông đã giữ vững khí tiết. Tháng 9/1940, ông bị đưa về giam ở xà lim của Sở Mật thám Hà Nội. Đầu năm 1941, ông Trần Hiệu tiếp tục bị thực dân Pháp đày lên nhà lao Bắc Mê, Hà Giang và ông lại tiếp nối những hoạt động cách mạng sôi nổi hơn. Pháp lại phải đưa ông về giam tại nhà lao Sơn La. Tại đây, ông cũng đã tham gia tuyệt thực phản đối chế độ thực dân.

Tháng 6/1941, ông Trần Hiệu cùng 7 đảng viên cộng sản khác bị đẩy lên tàu hỏa về xuôi. Tới Ninh Bình, nhóm tù nhân có thêm một người mới, đó là ông Phan Bôi (sinh năm 1911, người gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1930, từng sinh hoạt cùng chi bộ với Hải Triều và Trần Văn Giàu, từ tháng 8/1945 lấy tên là Hoàng Hữu Nam, trở thành Thứ trưởng Bộ Nội vụ của Chính phủ VNDCCH). Nhóm tù 11 người đã bị đưa vào Sài Gòn bằng xe lửa rồi bị đưa xuống tàu thủy, đem đi đày ở đảo Madagascar (châu Phi).

Đầu tháng 11/1942, quân đội Anh chiếm Madagascar. Họ đã tỏ ra thiện cảm với những người tù chính trị Việt Nam, vốn có tình cảm ủng hộ lực lượng Đồng minh chống phát xít. Và sau khi chính phủ của tướng De Gaulle lên nắm quyền ở Paris, chính quyền Pháp ở Madagascar đã buộc phải tuyên bố trả tự do cho những tù binh Việt Nam trên đảo. Kinh nghiệm những ngày vất vả làm việc đồng áng phụ giúp bố mẹ thời nhỏ của những cựu tù chính trị người Việt lúc này đâm ra có ích. Họ đã hướng dẫn dân bản địa cách trồng lúa nước, dệt vải bông, cả việc tập tành văn nghệ nên được nhân dân và chính quyền bản địa rất quý mến.

Mục tiêu tìm con đường về phục vụ Tổ quốc luôn nung náu trong lòng của nhóm cựu tù chính trị cộng sản ở Madagascar. Đầu năm 1943, họ đã quyết định tìm cách tham gia lực lượng Đồng minh chiến đấu chống phát xít với dự định sẽ tùy cơ ứng biến tìm đường về Việt Nam. Tháng 3/1943, quân Đồng minh Anh – Pháp ở Madagascar đã gọi Hoàng Đình Giong (tức Vũ Đức, sau là Khu trưởng Khu 9, Khu 6) và Đoàn Ngọc Rê (tức Cao Dương Tiệp, Dương Công Hoạt, sau là Ủy viên Ban Dân tộc Trung ương kiêm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc của Chính phủ) nhập ngũ.

Tới ngày 4/6/1943, các ông Phan Bôi, Tô Gĩ, Nguyễn Văn Phòng được gọi nhập ngũ, tới đầu tháng 9 thì ông Trần Hiệu và 12 người khác. Hầu hết được đưa tới Đại đội 1 thuộc cái gọi là “Quân chí nguyện Đông Dương” của lực lượng De Gaulle. Tại đây, ông Trần Hiệu và các đồng chí của ông đã vận động binh lính người Việt, vừa tìm cách tranh thủ, thuyết phục lính Pháp để bảo toàn đội ngũ, tìm cách sớm trở về nước.

Đầu năm 1944, ông cùng với hai người đồng chí của mình là ông Nguyễn Văn Ngọc (sinh năm 1908, về sau từng là  Bí thư Thành ủy Hà Nội rồi Viện phó Viện Công tố, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng ban Biên giới) và ông Nguyễn Văn Phòng (tức Nguyễn Văn Minh, sau là Chánh án Tòa Dân sự, Tòa án Nhân dân Tối cao) được chỉ huy quân đội Anh tập hợp thành một nhóm và đưa tới Kenya rồi sang Ấn Độ để tham dự huấn luyện nghiệp vụ tình báo. Bốn người đồng chí khác là các ông Phan Bôi, Lê Giản, Hoàng Đình Giong và Đoàn Ngọc Rê, được chia vào các nhóm khác.

Tại Ấn Độ, gặp lại ông Phan Bôi, ba chàng trai trẻ mới được biết rằng người Anh định sử dụng họ để thực hiện các chương trình phát thanh ở Sydney (Australia), San Francisco (Mỹ) và New Delhi (Ấn Độ). Ông Trần Hiệu cùng các đồng chí của mình đoán trước rằng, nếu thực sự gia nhập lực lượng Anh – Mỹ thì chắc chắn sẽ bị lợi dụng để chống lại Liên Xô nên các ông đã tìm mọi cách thoái thác những đề nghị hợp tác dù có vẻ rất hấp dẫn. Đồng thời, nhóm của ông đã tìm cách bí mật liên lạc với Đảng Cộng sản Ấn Độ.

Tình báo Anh ở Calcutta đã huấn luyện về lý thuyết hoạt động tình báo, cách đánh morse và dịch mật mã. Tham gia huấn luyện có cả các nhân viên Cục Tình báo Chiến lược Mỹ (OSS, tiền thân của CIA). Tháng 3/1945, chỉ huy tình báo Anh đã cho máy bay B-29 của Anh chở các ông Trần Hiệu, Nguyễn Văn Ngọc và Nguyễn Văn Phòng bay từ Dakar qua vịnh Bengal, vịnh Thái Lan vào vịnh Bắc Bộ tới châu thổ sông Hồng. Theo kế hoạch, ba tình báo viên người Việt sẽ phải nhảy dù cùng điện đài xuống khu vực Miếu Môn để triển khai hoạt động, nhưng vì vấp phải mạng lưới pháo phòng không của phát xít Nhật bắn lên, cộng thêm với điều kiện tự nhiên có sương mù dày đặc nên máy bay đã phải quay về.

Phi vụ thứ hai đã được tiến hành vào tháng 5/1945 theo đúng hành trình cũ. Ba tình báo viên người Việt của Đồng Minh đã nhảy dù thành công xuống làng Tiên Lữ, huyện Quốc Oai. Nhờ được nhân dân che chở, giúp đỡ, ba người đã tìm về được nhà ông Trần Hiệu ở Phúc Lâm và chỉ ít ngày sau đã bắt liên lạc được với Xứ ủy Bắc Kỳ. Gặp họ, lãnh tụ Hồ Chí Minh khuyên rằng không nhất thiết họ phải đốt dù và căn dặn nên bắt liên lạc lại với người Anh tại Trung tâm chỉ huy ở Calcutta (Ấn Độ) để xin thêm vũ khí, điện đài, thuốc chữa bệnh và tiếp tục cộng tác trên cơ sở cùng chiến đấu chống lại phát xít.

Những ngày sôi nổi và không kém hồi hộp ấy, ông Trần Hiệu được bố trí trong một ngôi chùa nhỏ thuộc huyện Hoài Đức. Tổ chức giao cho ông nhiệm vụ: Giữ liên lạc bình thường với người Anh, thực hiện liên lạc bằng điện đài giữa Xứ ủy và Trung ương, chuẩn bị chương trình để mở lớp huấn luyện về trinh sát quân sự cho Xứ ủy và ông hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Sau Cách mạng Tháng Tám, ra mắt Chính phủ cách mạng lâm thời, cân nhắc kĩ và đánh giá khả năng của những chiến sĩ cách mạng bị lưu đày đã được huấn luyện về tình báo, ông Trần Hiệu được cử Phụ trách Phòng Án Chính trị rồi làm Phó giám đốc Sở Công an Bắc Bộ. Khi chi bộ đảng đầu tiên được thành lập ở Nha Công an Trung ương, ông là Bí thư. Giữa năm 1946, người thứ hai trong nhóm tù chính trị lưu đày ở Madagascar là ông Lê Giản cũng được giao trọng trách Giám đốc Nha Công an Trung ương.

Không phụ niềm tin của Bác Hồ và các đồng chí lãnh đạo, ông Lê Giản, ông Trần Hiệu cùng những người đồng đội chí cốt của mình từ thời Madagascar và các cộng sự của mình đã có nhiều đóng góp vào nhiệm vụ bảo vệ trật tự, trị an trong những ngày vận nước lâm nguy. Đặc biệt, qua vụ án Ôn Như Hầu, lực lượng Công an cách mạng non trẻ đã đập tan âm mưu thâm độc của bọn phản động Quốc dân đảng, Đại Việt, Việt cách… câu kết với thực dân Pháp định tiến hành đảo chính lật đổ chính phủ Hồ Chí Minh.

Ông Trần Hiệu thời kì làm việc tại Nha Công an Trung ương (Sơn Dương, Tuyên Quang).

Ngày 15/7/1951, Cơ quan Tình báo Chiến lược của VNDCCH được thành lập với tên gọi Nha Liên lạc thuộc Thủ tướng Phủ, ông Trần Hiệu đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh bổ nhiệm làm Giám đốc. Ngày 10/6/1957, Nha Liên lạc hợp nhất với Cục Quân báo – Bộ Tổng tham mưu thành Cục Tình báo, ông lại được bổ nhiệm làm Cục trưởng. Ông là người đã góp phần kiến tạo những nhà tình báo chiến lược như Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Xuân Ẩn, Đặng Trần Đức, Lê Hữu Thúy…

Với nhà tình báo nổi tiếng Vũ Ngọc Nhạ, ông Trần Hiệu là người thủ trưởng, người thầy, người anh khả kính. Tháng 11/1954, ông Vũ Ngọc Nhạ được Cục trưởng Trần Hiệu giao nhiệm vụ mới. Đêm đó rất lạnh nhưng trong một ngôi nhà là địa điểm bí mật trên phố Hàng Bạc (Hà Nội), ông Vũ Ngọc Nhạ vẫn thấy ấm lòng bởi sự quan tâm và những chỉ bảo cụ thể, sâu sát của Cục trưởng Trần Hiệu…

Sau khi ông Nhạ vào Nam, Cục trưởng Trần Hiệu đã sắp xếp đưa cả gia đình ông Nhạ lên một chuyến tàu di cư vào Nam. Trước sự chỉ đạo và quan tâm sâu sắc của cấp trên, với trách nhiệm trước Tổ quốc và sự mưu trí, ông Vũ Ngọc Nhạ đã từng bước tiếp cận những yếu nhân và các cơ quan quyền lực của chính quyền Sài Gòn, trở thành cố vấn cho 2 đời tổng thống từ Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu…

Với nhà tình báo Lê Hữu Thúy (trong lưới A22 của ông Vũ Ngọc Nhạ). Trong kháng chiến chống Pháp, ông Lê Hữu Thúy là cán bộ công an, sau cải cách ruộng đất, do gia đình thuộc tầng lớp trên, nên bị ra khỏi ngành. Ông Trần Hiệu đã sớm phát hiện ra tài năng, tố chất xuất sắc của ông Lê Hữu Thúy. Chính ông đã bảo lãnh và cùng với ông Mười Hương làm những việc cần thiết để đưa ông Lê Hữu Thúy vào Nam hoạt động.

Năm 1958, ông được phong quân hàm Đại tá. Năm 1960, Đại tá Trần Hiệu được bổ nhiệm làm Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao và ông đảm nhận vị trí này cho tới khi về hưu năm 1984 và mất năm 1997.

Thế Cương