Thứ Ba, Tháng 10 21, 2025
* Email: bbt.dongnama@gmail.com *Tòa soạn: 0989011688 - 0768908888
spot_img

Đảm bảo quy mô và cơ cấu dân số, thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội vùng Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay



ĐNA -

Dân số hiểu theo nghĩa rộng là con người, vừa là nguồn lực trung tâm của sự phát triển kinh tế – xã hội, vừa là đối tượng thụ hưởng những thành tựu do quá trình phát triển đó mang lại. Trong mối quan hệ với nền sản xuất xã hội, con người vừa là chủ thể sáng tạo và quyết định sự phát triển, vừa là khách thể tiêu dùng các giá trị mà mình tạo ra. Vì vậy, trong mọi chiến lược phát triển vùng Tây Nguyên hiện nay, yếu tố dân số cả về số lượng lẫn chất lượng luôn được xem là nền tảng chiến lược, đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy tăng trưởng bền vững.

Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn được đồng bào các dân tộc Tây Nguyên yêu quý, trân trọng

Khái niệm phát triển được các nhà nghiên cứu đặc biệt nhấn mạnh từ những năm 1980 của thế kỷ XX, với quan niệm: “Sự phát triển đáp ứng các nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai.” Theo đó, phát triển bền vững phải đảm bảo hài hòa cả ba trụ cột: kinh tế, xã hội và môi trường.

Về kinh tế, phát triển bền vững đòi hỏi tăng trưởng nhanh, ổn định; thu nhập bình quân đầu người và GDP không ngừng tăng qua từng năm. Về xã hội, cần giải quyết vấn đề bất công, bất bình đẳng trong phân phối thu nhập; tạo cơ hội tiếp cận công bằng các nguồn lực phát triển cho mọi tầng lớp. Chỉ số phát triển con người (HDI) phải ngày càng được nâng cao, thể hiện xu hướng bình đẳng, tôn trọng và bảo đảm quyền con người. Về môi trường, yêu cầu phát triển xanh, sạch, bền vững, hướng tới xây dựng một không gian sống trong lành cho con người.

Trong phạm vi tham luận này, chúng tôi tiếp cận vấn đề theo hướng phát triển bền vững, tập trung vào mối quan hệ giữa dân số và phát triển. Ở đây, dân số được hiểu là con người, trung tâm của mọi chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Do đó, việc phát huy nhân tố con người được xem là nhiệm vụ trọng tâm, là khâu đột phá chiến lược trong tiến trình phát triển vùng Tây Nguyên hiện nay.

Theo học thuyết Mác – Lênin, dân số được xem là một vấn đề gắn liền với quy luật phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội. Trong đó, sản xuất vật chất và tái sản xuất dân cư là hai yếu tố có tính quyết định đối với sự phát triển của xã hội loài người. Dân số chính là con người, và như Mác đã chỉ rõ: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng, mà là tổng hòa các quan hệ xã hội.” Việc giải phóng con người, phát triển con người toàn diện luôn gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất, hướng tới mục tiêu phồn vinh xã hội. Đồng thời, “sản xuất ra những con người phát triển toàn diện” cũng chính là một trong những biện pháp căn bản để cải biến xã hội theo con đường xã hội chủ nghĩa. Từ đó, mỗi phương thức sản xuất sẽ tương ứng với một quy luật dân số riêng, và con người, với tư cách là chủ thể sáng tạo – có khả năng điều tiết các quá trình dân số nhằm phục vụ sự phát triển và nâng cao chất lượng cuộc sống. Như vậy, dân số vừa là yếu tố quyết định, vừa là động lực của quá trình sản xuất và phát triển kinh tế – xã hội ở mỗi quốc gia.

Dân số là động lực của quá trình phát triển kinh tế – xã hội của khu vực Tây Nguyên
Dân số được coi là yếu tố động lực quan trọng trong sự phát triển kinh tế – xã hội của vùng Tây Nguyên. Để dân số thực sự trở thành động lực thúc đẩy phát triển, cần bảo đảm đồng thời cả về số lượng và chất lượng. Các quá trình dân số như mức sinh, mức tử và di cư đều có tác động trực tiếp đến quy mô và cơ cấu dân số của vùng. Trong đó, quy mô thể hiện ở số lượng dân cư, còn cơ cấu phản ánh chất lượng dân số thông qua các yếu tố như tuổi, giới tính, trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật,…

Vì vậy, để dân số trở thành nguồn lực phát triển thực sự, hai yếu tố này phải được phát triển cân đối và phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của vùng Tây Nguyên. Khi dân số vừa đáp ứng đủ quy mô vừa đạt chất lượng cao, góp phần thúc đẩy và thỏa mãn các yêu cầu phát triển của khu vực hay quốc gia, dân số ấy được gọi là “dân số có động lực”.

Về quy mô dân số, cần bảo đảm cả số lượng, mật độ và sự phân bố dân cư hợp lý. Quy mô dân số được hiểu là tổng số người đang sinh sống trên một vùng lãnh thổ nhất định tại một thời điểm cụ thể, không phân biệt độ tuổi hay giới tính. Mật độ dân số là số người bình quân trên một kilômét vuông diện tích lãnh thổ, được tính bằng cách chia tổng dân số của vùng cho diện tích của vùng đó. Bên cạnh đó, phân bố dân cư phải được tổ chức hài hòa giữa các vùng, miền, nhằm bảo đảm sử dụng hiệu quả các nguồn lực tự nhiên và xã hội. Như vậy, để dân số thực sự trở thành động lực của phát triển, quy mô dân số phải hợp lý, tức là phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế, tương thích với chất lượng dân số, và đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của vùng Tây Nguyên.

Về cơ cấu dân số, hay còn gọi là chất lượng dân số, đây là yếu tố phản ánh cấu trúc bên trong của cộng đồng dân cư. Cơ cấu dân số là sự phân chia dân cư thành các nhóm khác nhau (theo độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng sức khỏe,…) và giữa các nhóm đó tồn tại những mối quan hệ nhất định. Cơ cấu này không chỉ gắn liền với quy mô và tốc độ tăng dân số, mà còn thể hiện chất lượng dân số của một vùng, một quốc gia. Theo quan điểm khoa học, “chất lượng dân số phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và tinh thần của toàn bộ dân cư.” Do đó, một cơ cấu dân số hợp lý cũng chính là cơ sở để nâng cao chất lượng dân số, từ đó trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội.

Thực tiễn cho thấy, chất lượng dân số không chỉ được đánh giá qua thể chất (như chiều cao, cân nặng, sức khỏe, sự cân đối cơ thể, sức bền…), mà còn qua đời sống tinh thần và mối quan hệ xã hội, tức là mức độ bình đẳng trong cơ hội việc làm, giáo dục, phúc lợi, hôn nhân, quyền tự do cá nhân, cũng như khả năng phát huy sáng tạo trong đời sống thực tế.

Vì vậy, để dân số thực sự trở thành động lực của phát triển, cần bảo đảm: Cơ cấu dân số theo độ tuổi hợp lý, với tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động cao, tỷ lệ phụ thuộc thấp; Cơ cấu giới tính cân bằng tự nhiên; Trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật cao; Tình trạng sức khỏe tốt, chỉ số phát triển con người (HDI) cao; Đồng thời, nâng cao ý thức trách nhiệm xã hội và tính kỷ luật lao động, bởi đây cũng là những yếu tố góp phần tạo nên chất lượng dân số – nền tảng cho sự phát triển bền vững của vùng Tây Nguyên.

Như vậy, khi dân số có quy mô hợp lý và cơ cấu tốt, dân số sẽ trở thành động lực của sự phát triển. Nói cách khác, kết quả của các yếu tố quy mô, cơ cấu và phân bố dân cư chính là bảo đảm nguồn lực dân số phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia nói chung và vùng Tây Nguyên nói riêng.

Ngược lại, phát triển cũng tác động trở lại dân số, bởi mọi thành tựu đạt được trong quá trình phát triển đều hướng tới phục vụ con người, mà con người chính là dân số. Trong đó, dân số trong độ tuổi lao động là nguồn nhân lực chủ yếu cho mọi quá trình phát triển kinh tế – xã hội.

Thực tiễn cho thấy, mọi sự phát triển đều nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, bởi họ vừa là chủ thể sáng tạo vừa là khách thể thụ hưởng của quá trình phát triển. Mọi sản phẩm vật chất và tinh thần do con người tạo ra đều hướng tới phục vụ chính con người.

Cụ thể, phát triển kinh tế bảo đảm tăng trưởng bền vững, GDP và thu nhập bình quân đầu người năm sau cao hơn năm trước; phát triển xã hội hướng đến mở rộng dịch vụ giáo dục, y tế, phúc lợi, vui chơi giải trí lành mạnh; trong khi phát triển môi trường nhằm tạo dựng không gian sống xanh, sạch, an toàn và trong lành, hướng tới một cuộc sống thịnh vượng, hài hòa cho con người.

Các kết quả này lại tác động ngược trở lại quá trình dân số, ảnh hưởng đến mức sinh, mức tử và di cư. Do đó, giữa dân số và phát triển tồn tại mối quan hệ biện chứng, chặt chẽ, trong đó dân số là điều kiện và tiền đề của phát triển, đồng thời phát triển cũng định hướng và điều chỉnh dân số. Nói cách khác, dân số và phát triển là chiếc cầu nối giữa dân số học và các yếu tố kinh tế, xã hội, môi trường trong tiến trình phát triển bền vững.

Dân số là một biến số quan trọng, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của vùng Tây Nguyên nói riêng và cả nước nói chung. Vì vậy, trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, cần lồng ghép các yếu tố dân số để bảo đảm sự hài hòa giữa dân số, kinh tế, xã hội và môi trường, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.

Trong quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội nói chung, và quy hoạch vùng Tây Nguyên nói riêng, việc xem xét yếu tố dân cư và sử dụng đất đai là hết sức quan trọng. Bởi lẽ, quy hoạch vùng không chỉ là việc phân bố không gian kinh tế mà còn là tổ chức lại đời sống dân cư trên một vùng lãnh thổ rộng lớn.

Do đó, công tác quy hoạch phải bảo đảm điều kiện thuận lợi cho người dân trong di chuyển, sinh sống và làm việc, đồng thời phát triển đồng bộ các dịch vụ thiết yếu như y tế, giáo dục, đào tạo, việc làm, và phúc lợi xã hội, đáp ứng nhu cầu của cộng đồng dân cư tại chỗ. Nếu các yếu tố này không được tính đến đầy đủ, quá trình quy hoạch sẽ không thể bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững cho vùng Tây Nguyên.

Hiện trạng trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật của các dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên
Một là, thực tiễn vấn đề quy mô dân số ở Tây Nguyên. Tây Nguyên là vùng có dân cư thưa thớt nhất cả nước, với tổng dân số khoảng 5,8 triệu người, chiếm 6,1% dân số Việt Nam. Kết quả Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024 – thuộc Chương trình điều tra thống kê quốc gia theo Quyết định số 03/2023/QĐ-TTg ngày 15/02/2023 của Thủ tướng Chính phủ – cũng cho thấy, dân số Tây Nguyên hiện đạt khoảng 6,2 triệu người, tương đương 6,2% dân số cả nước. Theo bảng thống kê dân số các tỉnh năm 2024, mật độ dân số toàn vùng đạt 114 người/km², với tổng diện tích tự nhiên 54.548 km² – mức thấp hơn nhiều so với các vùng khác. Về đặc điểm dân cư, Tây Nguyên là vùng đa dân tộc, nơi sinh sống của 54 dân tộc, trong đó có 12 dân tộc thiểu số tại chỗ, với dân số dân tộc thiểu số khoảng 2,2 triệu người. Mặc dù có diện tích rộng lớn, song dân cư phân bố thưa thớt, địa hình phức tạp gồm nhiều cao nguyên, đồi núi và rừng sâu khiến việc tập trung dân cư và phát triển kinh tế gặp nhiều khó khăn. Chính những yếu tố này dẫn đến hạn chế trong tiếp cận việc làm, giáo dục, y tế và các dịch vụ xã hội, ảnh hưởng đáng kể đến khả năng thu hút dân cư di cư đến vùng Tây Nguyên.

Do đó, xét về quy mô dân số, một quy mô dân số lớn mang lại nhiều thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội. Trước hết, dân số đông bảo đảm nguồn nhân lực dồi dào, là lực lượng trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tạo ra của cải vật chất cho xã hội, đồng thời là nguồn lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Với lực lượng lao động phong phú, các địa phương có thể thu hút đầu tư trong và ngoài nước, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, mở rộng phân công lao động xã hội, và phát triển đồng bộ các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ. Dân số đông cũng giúp tăng tiềm lực kinh tế – quốc phòng, củng cố an ninh và chủ quyền quốc gia; đồng thời là động lực phát triển các dịch vụ xã hội như giáo dục, y tế, văn hóa, vui chơi giải trí, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng sức cạnh tranh của vùng. Tuy nhiên, số liệu thống kê cho thấy, vùng Tây Nguyên có quy mô dân số thấp trong khi diện tích tự nhiên rất lớn, dẫn đến mật độ dân số thưa thớt. Điều này khiến Tây Nguyên chưa phát huy được những lợi thế về quy mô dân số, từ đó hạn chế khả năng thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của vùng.

Hai là, thực tiễn vấn đề cơ cấu (chất lượng) dân số ở vùng Tây Nguyên. Khi đề cập đến cơ cấu dân số, thực chất là nói đến nguồn nhân lực, yếu tố quyết định chất lượng phát triển kinh tế – xã hội. Trong đó, cần đặc biệt nhấn mạnh đến trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động, nhất là nhóm dân số trong độ tuổi lao động từ 15 đến 64 tuổi, bởi đây là chỉ tiêu quan trọng phản ánh chất lượng nhân lực và trình độ phát triển của một quốc gia. Trình độ học vấn có tác động trực tiếp đến thu nhập, việc làm, sinh kế và an sinh xã hội, đồng thời ảnh hưởng đến năng suất lao động và chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, tỷ lệ biết chữ của đồng bào các dân tộc thiểu số nói riêng và vùng Tây Nguyên nói chung vẫn thấp hơn so với mức trung bình của cả nước và các vùng khác.

Theo thống kê, số năm đi học kỳ vọng trung bình của cả nước là 12,2 năm, thể hiện tín hiệu tích cực về cơ hội tiếp cận giáo dục và khả năng nâng cao trình độ trong tương lai. Tuy nhiên, vùng Tây Nguyên có số năm đi học kỳ vọng thấp hơn đáng kể, phản ánh những hạn chế trong tiếp cận giáo dục và chất lượng nguồn nhân lực, qua đó ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế – xã hội của vùng (xem Bảng 1).

Nguồn: Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, tổng cục Thống kê.

Kết quả thống kê tại Bảng 2 cho thấy, khi so sánh trình độ học vấn của dân số từ 15 tuổi trở lên giữa các vùng kinh tế – xã hội, vùng Tây Nguyên có tỷ lệ dân số chưa bao giờ đi học cao nhất trong cả nước. Đồng thời, tỷ lệ người có trình độ đại học trở lên tại Tây Nguyên ở mức thấp, chỉ nhỉnh hơn khu vực Trung du và miền núi phía Bắc. Tương tự, Bảng 3 về tỷ lệ lao động đã qua đào tạo cho thấy, tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở Tây Nguyên vẫn chiếm tỷ lệ thấp so với mặt bằng chung cả nước. Thực tiễn này phản ánh những khó khăn và hạn chế lớn trong quá trình phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao của vùng Tây Nguyên hiện nay. Đây cũng là thách thức đối với mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hút đầu tư và phát triển bền vững của khu vực trong giai đoạn tới.

Bảng 2: Trình độ học vấn của dân số từ 15 tuổi trở lên theo vùng kinh tế – xã hội (2019)

Nguồn: Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, tổng cục Thống kê

Bảng 3: Biểu đồ tỷ lệ lao động đã qua đào tạo theo vùng KT – XH (%)

Nguồn: Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, tổng cục Thống kê

Nhìn một cách tổng thể, các yếu tố trên cho thấy Tây Nguyên không phải là “vùng trũng” về giáo dục, tuy nhiên các chỉ số liên quan đến học vấn và đào tạo vẫn ở mức thấp so với mặt bằng chung của cả nước. Trong khi đó, trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật là những yếu tố then chốt phản ánh chất lượng nguồn nhân lực, bởi chúng tác động trực tiếp đến năng lực làm việc, khả năng tiếp thu tri thức mới, kỹ năng giải quyết vấn đề và mức độ đóng góp vào phát triển kinh tế – xã hội của vùng.

Một quốc gia hay vùng lãnh thổ có nguồn nhân lực chất lượng cao, được đào tạo bài bản, sẽ có năng lực đáp ứng tốt hơn yêu cầu của thị trường lao động hiện đại, đồng thời thúc đẩy năng suất, đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững. Ngược lại, trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật thấp lại là điểm nghẽn lớn trong việc nâng cao chất lượng dân số và phát triển nguồn nhân lực ở Tây Nguyên.

Thực tiễn cho thấy, dù những năm gần đây chất lượng giáo dục phổ thông đã có cải thiện, song tỷ lệ lao động qua đào tạo vẫn còn hạn chế. Phần lớn lao động trong vùng chưa được đào tạo chuyên môn kỹ thuật, chủ yếu là lao động giản đơn, điều này làm giảm năng suất lao động, hạn chế khả năng cạnh tranh và ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển kinh tế – xã hội của vùng Tây Nguyên. Một vấn đề quan trọng được đặt ra trong quá trình đánh giá chất lượng giáo dục và đào tạo, đồng thời ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dân số và nguồn nhân lực, chính là chỉ tiêu số học sinh trên một giáo viên.

Chỉ tiêu này phản ánh chất lượng giáo dục ở từng cấp học: khi tỷ số học sinh/giáo viên càng cao, tức là mỗi giáo viên phải phụ trách nhiều học sinh hơn, chất lượng giảng dạy và học tập có thể bị ảnh hưởng; ngược lại, tỷ số càng thấp cho thấy nhà trường có điều kiện thuận lợi hơn để bảo đảm chất lượng dạy và học. Ngoài ra, yếu tố này còn góp phần đánh giá mức độ chênh lệch giới trong tiếp cận giáo dục tại vùng Tây Nguyên. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu này, chúng tôi chưa có đủ số liệu cụ thể của vùng Tây Nguyên để tiến hành phân tích sâu về chỉ tiêu số học sinh trên một giáo viên ở các cấp học phổ thông, do đó việc đo lường và đánh giá chất lượng giáo dục theo tiêu chí này còn mang tính hạn chế.

Qua thực tiễn các số liệu của Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 do Tổng cục Thống kê công bố, có thể rút ra một số nhận định quan trọng sau:

Nhìn từ góc độ dân số, vốn là nguồn nhân lực chủ yếu của vùng Tây Nguyên, có thể thấy rằng dân số vùng hiện nay chưa thực sự trở thành động lực phát triển. Nói cách khác, quy mô và cơ cấu dân số của Tây Nguyên chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển, cũng như mục tiêu phát triển bền vững của vùng.

Cụ thể, quy mô dân số của vùng còn nhỏ so với diện tích tự nhiên rộng lớn, trong khi cơ cấu dân số lại chưa hợp lý: trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật của người lao động thấp hơn đáng kể so với các khu vực khác và mặt bằng chung của cả nước. Thực tế này phản ánh khoảng cách phát triển còn tồn tại giữa Tây Nguyên và các vùng đồng bằng; đồng thời cho thấy chất lượng giáo dục và đào tạo trong vùng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội hiện nay.

Tuy nhiên, khát vọng vươn lên làm giàu và xây dựng quê hương của người dân Tây Nguyên luôn nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương. Nhiều chủ trương, chính sách đã được ban hành nhằm tạo sinh kế, hỗ trợ thoát nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng và người dân Tây Nguyên nói chung.

Bởi lẽ, đồng bào dân tộc thiểu số và toàn thể người dân Tây Nguyên chính là dân số, là nguồn nhân lực cốt lõi, động lực trực tiếp thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của vùng. Vì vậy, cần ưu tiên cải thiện chất lượng giáo dục, nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng lao động, qua đó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho vùng. Ngược lại, nếu không có giải pháp cải thiện mạnh mẽ, kinh tế Tây Nguyên sẽ tiếp tục phát triển chậm, khó theo kịp các vùng khác và không đạt được mục tiêu phát triển bền vững đã đề ra.

Đảm bảo quy mô và cơ cấu dân số, phát triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực vùng Tây Nguyên nói riêng là một trong những khâu đột phá chiến lược trong tiến trình phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia, cũng như của vùng Tây Nguyên. Đối với Tây Nguyên, việc nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng nghề nghiệp của người lao động có ý nghĩa quyết định đối với phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời là nền tảng hướng tới mục tiêu phát triển bền vững của vùng.

Cần đẩy mạnh công tác giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực, kết hợp với chính sách tạo việc làm và giải quyết việc làm ổn định, nhằm phát triển kinh tế và nguồn nhân lực Tây Nguyên theo nhiều hình thức đa dạng, phù hợp với điều kiện thực tiễn. Việc này sẽ góp phần từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa Tây Nguyên với các vùng khác, đưa trình độ dân trí và tay nghề của người lao động tiệm cận với mặt bằng chung của cả nước, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực vùng Tây Nguyên không chỉ có vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế – xã hội, mà còn góp phần giảm nghèo bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, đồng thời bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng chiến lược Tây Nguyên và đóng góp tích cực vào sự ổn định, phát triển của cả nước.

Trong bối cảnh phát triển mới hiện nay, đặc biệt là sau quá trình sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, Việt Nam đang thực hiện một bước cải cách hành chính quan trọng nhằm kiến tạo các đơn vị hành chính có quy mô đủ lớn, có khả năng trở thành những cực tăng trưởng mới, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của cả nước.

Quá trình sáp nhập này không chỉ đơn thuần là việc điều chỉnh địa giới hành chính, mà còn là sự tái cấu trúc không gian kinh tế, bao gồm điều chỉnh về phân công, phân cấp quản lý, cũng như phân bổ và phối hợp các nguồn lực phát triển một cách hiệu quả, đồng bộ và bền vững.

Trong đó, bộ tiêu chí do Bộ Nội vụ đề xuất về sáp nhập các đơn vị hành chính cấp tỉnh ưu tiên việc sắp xếp, kết nối giữa các địa phương miền núi, đồng bằng và ven biển, với mục tiêu tăng cường tính liên kết vùng, hỗ trợ lẫn nhau trong phát triển, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế – xã hội sau sắp xếp và phù hợp với định hướng phát triển nhanh, bền vững của đất nước trong giai đoạn mới. Bối cảnh này đồng thời mở ra nhiều cơ hội và động lực phát triển mới cho các tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên, tạo tiền đề để khu vực này tăng cường hội nhập, liên kết vùng và phát huy hiệu quả hơn các tiềm năng, lợi thế sẵn có.

Xét ở khía cạnh dân số, có thể thấy rằng dân số chính là yếu tố tạo ra động lực tăng trưởng mới trong bối cảnh sáp nhập các đơn vị hành chính cấp tỉnh. Quá trình này giúp tổng hợp và mở rộng quy mô dân số, đồng thời gia tăng tiềm năng phát triển nhờ nguồn lực chung về con người, diện tích, tài nguyên và lao động. Đây là cơ sở thuận lợi cho công tác quy hoạch, phát triển kinh tế và thu hút đầu tư ở quy mô lớn hơn, hiệu quả hơn.

Dân số trong giai đoạn này không chỉ là nguồn lao động trực tiếp, mà còn là thị trường tiêu thụ hàng hóa, lực lượng sáng tạo khoa học – công nghệ và yếu tố đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Sau sáp nhập, quy mô dân số tăng lên sẽ thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, đồng thời cung cấp nguồn nhân lực dồi dào, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của các ngành kinh tế.

Quy mô dân số lớn cũng góp phần mở rộng thị trường nội địa, kích thích phát triển dịch vụ và thương mại, nâng cao năng lực cạnh tranh và tăng tính bền vững trong nền kinh tế thị trường. Đặc biệt, dân số đông và chất lượng cao sẽ giúp các tỉnh Tây Nguyên sau sáp nhập có điều kiện hoạch định chiến lược phát triển toàn diện hơn, xây dựng các vùng kinh tế trọng điểm, tăng cường liên kết vùng, phát huy lợi thế so sánh và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội bền vững, đóng góp vào tăng trưởng chung của khu vực và cả nước.

Chính vì vậy, để phát huy lợi thế dân số và nguồn nhân lực. đặc biệt là lực lượng lao động trong độ tuổi làm việc của vùng Tây Nguyên, nhằm thúc đẩy tăng trưởng chung cho từng địa phương và toàn vùng sau sáp nhập, cần chủ động khắc phục những khó khăn nảy sinh trong quá trình sáp nhập đơn vị hành chính. Những thách thức chủ yếu gồm: khó khăn trong công tác an ninh, trật tự và quản lý dân cư; yêu cầu đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và dịch vụ công tương xứng với quy mô dân số mở rộng; cũng như nguy cơ quá tải hoặc mất cân đối trong phân bổ nguồn lực xã hội.

Trên cơ sở đó, cần bảo đảm để dân số thực sự trở thành động lực nội sinh quan trọng, đóng vai trò trung tâm trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của vùng Tây Nguyên nói riêng và cả nước nói chung. Để duy trì mối quan hệ biện chứng giữa dân số và phát triển, đồng thời xây dựng chính sách quản lý phù hợp, hiệu quả, tham luận đề xuất một số kiến nghị chủ yếu sau: Hoàn thiện khung pháp lý về sáp nhập đơn vị hành chính, bảo đảm tính nhất quán, đồng bộ và phù hợp với điều kiện thực tiễn của các vùng miền. Xây dựng và thực thi các chính sách dân số có hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm sự hài hòa giữa chính sách dân số và chính sách phát triển kinh tế – xã hội, nhằm phát huy tối đa tiềm năng con người. Điều chỉnh và hoàn thiện chính sách dân số gắn với mục tiêu phát triển bền vững, phù hợp với từng giai đoạn lịch sử và đặc thù của từng vùng, đặc biệt là vùng dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Tăng cường các biện pháp giảm thiểu sự khác biệt về văn hóa, phong tục, tập quán, tạo môi trường hợp tác và hội nhập hiệu quả giữa người dân tại các tỉnh mới sáp nhập. Lồng ghép các yếu tố dân số trong mọi chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm sự hài hòa giữa dân số, kinh tế, xã hội và môi trường, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững toàn diện cho vùng Tây Nguyên.

Nguyễn Thị Thùy Nhung  – Mai Chiếm Hiếu

Tài liệu tham khảo
1.Phạm Nguyên, Dân tộc và Phát triển, “Thời cơ và động lực để các tỉnh Tây Nguyên phát triển mạnh mẽ”, 2025, https://baodantoc.vn/thoi-co-va-dong-luc-de-cac-tinh-tay-nguyen-phat-trien-manh-me-1701452090068.htm#:~:text=T%C3%A2y%20Nguy%C3%AAn%20g%E1%BB%93m%205%20t%E1%BB%89nh,kho%E1%BA%A3ng%202%2C2%20tri%E1%BB%87u%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di.
2.Ủy ban môi trường và phát triển thế giới (WCED) – định nghĩa về phát triển bền vững được nêu lên lần đầu tiên vào năm 1987.
3.https://www.gso.gov.vn/du-lieu-dac-ta/2019/12/htcttkqg-dan-so-mat-do-dan-so/
4.Pháp lệnh dân số Việt Nam năm 2003 đã định nghĩa:
5.Thông cáo báo chí kết quả sơ bộ: Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019; https://www.nso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2019/10/thong-cao-bao-chi-ket-qua-so-bo-tong-dieu-tra-dan-so-va-nha-o-nam-2019/
6.Thông cáo báo chí kết quả điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024; https://www.nso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2025/01/thong-cao-bao-chi-ket-qua-dieu-tra-dan-so-va-nha-o-giua-ky-nam-2024/