Thứ Sáu, Tháng 10 10, 2025
* Email: bbt.dongnama@gmail.com *Tòa soạn: 0989011688 - 0768908888
spot_img

Đấu tranh với các luận điệu sai trái, thù địch bảo vệ nền tảng tư tưởng của đảng về đổi mới nâng cao chất lượng chính sách xã hội



ĐNA -

Gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới, dù phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thách thức, nhưng Đảng và Nhà nước ta luôn kiên định quan điểm lấy con người làm trung tâm, là mục tiêu và động lực của sự phát triển. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, trong đó nổi bật và xuyên suốt là những chính sách xã hội mang đậm tính nhân văn, thể hiện trách nhiệm chính trị và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, nền tảng vững chắc cho một Việt Nam phát triển bền vững, công bằng, văn minh.

Bảo vệ quyền con người và phát triển bền vững không tách rời, mà gắn bó hữu cơ với sự nghiệp cách mạng của Đảng. Ảnh: nhandan.vn

Quan điểm của Đảng về chính sách an sinh xã hội
Định hướng đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lĩnh vực chính sách xã hội, đặc biệt được thể hiện qua Nghị quyết số 42-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, luôn là kim chỉ nam quan trọng cho sự phát triển toàn diện, bền vững của đất nước. Đây không chỉ là sự cụ thể hóa quan điểm “lấy con người làm trung tâm của chiến lược phát triển” mà còn là minh chứng sinh động cho đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong công cuộc đổi mới.

Thực tiễn triển khai Nghị quyết đã chứng minh, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao; chính sách xã hội ngày càng bao trùm nhiều lĩnh vực, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Từ an sinh xã hội, chăm sóc sức khỏe, giáo dục – đào tạo, đến bảo đảm việc làm, giảm nghèo bền vững… tất cả đều khẳng định tính nhân văn sâu sắc và hiệu quả thiết thực của các chủ trương, chính sách.

Tuy nhiên, đi liền với những thành tựu đó, các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước vẫn ráo riết tìm cách xuyên tạc, phủ nhận thành quả đổi mới. Chúng lợi dụng những hạn chế, khó khăn trong quá trình triển khai để tung ra những luận điệu sai trái, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, gieo rắc hoài nghi trong xã hội. Những chiêu thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, nhằm mục tiêu xuyên phá nền tảng tư tưởng, làm suy giảm niềm tin của nhân dân.

Trước thực tiễn ấy, đòi hỏi chúng ta phải có những luận cứ khoa học, thực tiễn và lập luận chặt chẽ để kiên định, bảo vệ quan điểm đổi mới của Đảng, đồng thời phản bác kịp thời, thuyết phục mọi luận điệu xuyên tạc. Điều này không chỉ góp phần bảo vệ sự đúng đắn của Nghị quyết 42-NQ/TW, mà còn khẳng định tính tất yếu, bền vững của đường lối đổi mới trong lĩnh vực chính sách xã hội, vì con người, do con người và vì sự phát triển của đất nước.

Trong suốt tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước ta luôn kiên định quan điểm coi chính sách xã hội là một bộ phận trọng yếu của đường lối phát triển đất nước; vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển bền vững, giữ vững ổn định chính trị – xã hội, đồng thời khẳng định bản chất nhân văn, tiến bộ của quyền con người ở Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Đây là sự kết hợp biện chứng giữa mục tiêu phát triển kinh tế với yêu cầu bảo đảm công bằng xã hội, giữa tăng trưởng với tiến bộ và hạnh phúc của nhân dân.

Về mặt lý luận, chính sách xã hội được hiểu là tổng thể các quan điểm, chủ trương của chủ thể lãnh đạo và quản lý xã hội ở tầm quốc gia là Đảng và Nhà nước được thể chế hóa, cụ thể hóa thành những biện pháp và công cụ tác động trực tiếp đến con người, các nhóm xã hội và cộng đồng. Mục tiêu căn bản của chính sách xã hội là triển khai chiến lược phát triển con người, giải quyết những vấn đề xã hội bức thiết, đồng thời kiến tạo môi trường thuận lợi nhất cho sự phát triển toàn diện của con người trong từng giai đoạn lịch sử. Điều này không chỉ phản ánh bản chất ưu việt của chế độ ta, mà còn là minh chứng sinh động cho sự gắn kết chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn trong công tác lãnh đạo của Đảng.

 Chính sách xã hội của Nhà nước ta hướng tới giải quyết hài hòa những vấn đề xã hội đặt ra, với mục tiêu cao nhất là phát triển con người và thúc đẩy tiến bộ xã hội. Đây chính là nơi thể hiện rõ đặc trưng và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, một chế độ mang đậm bản chất nhân văn, nhân đạo, tiến bộ đồng thời khẳng định trách nhiệm chính trị và pháp lý của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.

Mục tiêu bao trùm của chính sách xã hội là tạo cơ hội phát triển cho mọi người, mang lại cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn cho toàn thể nhân dân, xây dựng một xã hội phát triển bền vững, gắn với điều kiện lịch sử cụ thể và phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc. Đồng thời, chính sách xã hội phải bảo đảm công bằng, tiến bộ, bình đẳng, qua đó nâng cao chất lượng cuộc sống, hướng tới hạnh phúc bền vững của Nhân dân. Đây vừa là yêu cầu, vừa là minh chứng khẳng định bản chất tốt đẹp và sức sống trường tồn của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Bước vào thời kỳ đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Trong đó, Đại hội khẳng định: “Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc… thể hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội” (Văn kiện Đại hội VI, Nxb Sự thật, 1987, tr. 86). Đây là bước đột phá về tư duy, khẳng định chính sách xã hội không tách rời mà gắn bó hữu cơ, mật thiết với chính sách kinh tế, cùng hướng tới mục tiêu phát triển con người và tiến bộ xã hội.

Đồng thời, Văn kiện Đại hội nhấn mạnh: “Cần có chính sách xã hội cơ bản, lâu dài và xác định những nhiệm vụ, mục tiêu phù hợp với yêu cầu, khả năng trong chặng đường đầu tiên”. Đây là bước tiến quan trọng trong nhận thức lý luận của Đảng về chính sách xã hội, đặt nền móng cho quá trình hoạch định và triển khai các chính sách xã hội theo hướng ngày càng toàn diện, hiệu quả và bền vững.

Tiếp nối tinh thần đổi mới của Đại hội VI, các Đại hội VII, VIII, IX của Đảng tiếp tục khẳng định tầm quan trọng chiến lược của phát triển xã hội, xác định rõ vị trí, vai trò của chính sách xã hội, đồng thời nhấn mạnh mối quan hệ biện chứng, gắn bó chặt chẽ giữa chính sách xã hội với chính sách kinh tế. Đây chính là sự phát triển trong tư duy lãnh đạo của Đảng, khẳng định quan điểm xuyên suốt: tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định rõ vai trò của chính sách xã hội trong sự nghiệp đổi mới. Văn kiện nêu rõ: “Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân; kết hợp chặt chẽ và hợp lý giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách”.

Đây là sự kế thừa và phát triển nhất quán trong tư duy của Đảng, coi chính sách xã hội không chỉ là một lĩnh vực quản lý mà còn là nhân tố có tính quyết định đến sự phát triển bền vững của đất nước. Việc gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa – xã hội, giữa tăng trưởng với tiến bộ và công bằng xã hội, vừa phản ánh bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa khẳng định mục tiêu cao nhất: vì con người và do con người, hướng tới một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Tổng kết 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội X của Đảng (năm 2006) đã nhấn mạnh yêu cầu phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội phải luôn đặt trong mối quan hệ hữu cơ, không tách rời với phát triển kinh tế và quản lý phát triển kinh tế. Văn kiện Đại hội chỉ rõ: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển”. Đây là sự khẳng định mạnh mẽ tính nhất quán trong quan điểm của Đảng về gắn kết chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, coi đây là nguyên tắc nền tảng để phát triển bền vững.

Đại hội XI của Đảng (năm 2011) tiếp tục phát triển và cụ thể hóa quan điểm này, nhấn mạnh: “Kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách; phát triển hài hòa đời sống vật chất và đời sống tinh thần”. Quan điểm đó đã mở rộng phạm vi, làm rõ hơn yêu cầu phát triển toàn diện, không chỉ đáp ứng nhu cầu vật chất mà còn nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân.

Để hiện thực hóa mục tiêu công bằng xã hội, Đảng ta cũng khẳng định chính sách xã hội phải phù hợp với từng đối tượng, từng giai cấp và tầng lớp trong xã hội, bảo đảm tính bao trùm nhưng vẫn cụ thể, thiết thực. Điều này thể hiện rõ định hướng nhân văn, tiến bộ của Đảng trong việc xây dựng hệ thống chính sách xã hội gắn liền với mục tiêu phát triển con người toàn diện, coi con người vừa là chủ thể, vừa là mục tiêu của sự phát triển.

Quán triệt sâu sắc các quan điểm chỉ đạo của Đảng, trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn coi việc xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển bền vững, ổn định chính trị – xã hội, đồng thời là sự khẳng định bản chất nhân văn, ưu việt của chế độ ta. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực xã hội không ngừng được bổ sung, hoàn thiện; diện thụ hưởng ngày càng mở rộng, mức độ hỗ trợ ngày càng được nâng cao. Nguồn lực đầu tư cho phát triển xã hội cũng không ngừng gia tăng, với sự đóng góp từ ngân sách nhà nước và huy động mạnh mẽ các nguồn lực xã hội khác.

Nhờ đó, nhiều lĩnh vực xã hội đã đạt được những thành tựu quan trọng và toàn diện: công tác giảm nghèo bền vững, tạo việc làm, chăm lo và ưu đãi người có công, phát triển giáo dục – đào tạo, chăm sóc y tế, trợ giúp xã hội cho người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, thúc đẩy bình đẳng giới và xây dựng gia đình văn hóa. Đặc biệt, đời sống vật chất và tinh thần của người có công, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng được cải thiện rõ rệt, qua đó củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và tăng cường sự ổn định chính trị – xã hội.

Thành tựu đó không chỉ khẳng định tính đúng đắn của đường lối, chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước mà còn góp phần nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Liên hợp quốc đã ghi nhận Việt Nam là một trong những quốc gia đi đầu trong việc thực hiện một số Mục tiêu Thiên niên kỷ, minh chứng rõ nét cho sự gắn kết giữa đường lối đổi mới, chính sách xã hội nhân văn với hiệu quả thực tiễn và tầm vóc quốc tế của đất nước.

Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 – 2016) đã chỉ rõ: “Đảng đã nhận thức ngày càng cụ thể và đầy đủ hơn tầm quan trọng, mục tiêu và nội dung của việc giải quyết các vấn đề xã hội, đặc biệt là an sinh xã hội, phúc lợi xã hội… Nhận thức rõ hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; vai trò của chính sách xã hội, sự thống nhất và kết hợp hài hòa giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội”. Đây là sự phát triển quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng, khẳng định ngày càng sâu sắc hơn tính tất yếu của việc gắn kết giữa kinh tế và xã hội, giữa tăng trưởng và công bằng, để hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.

Trên cơ sở đó, Đại hội XII tiếp tục đề ra quan điểm phát triển xã hội bền vững, nhấn mạnh: “Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước”. Quan điểm này không chỉ thể hiện rõ sự kiên định mà còn là bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng, đặt nhân dân vào vị trí trung tâm của sự phát triển, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội được thực hiện ngay trong từng chính sách, từng giai đoạn.

Kế thừa và phát triển những thành quả quan trọng từ các kỳ Đại hội trước, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán: “Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân”. Đây là sự khẳng định rõ ràng rằng chính sách xã hội không chỉ là hệ thống giải pháp cụ thể mà còn là trụ cột nền tảng, trực tiếp quyết định chất lượng phát triển đất nước.

Đặc biệt, Đại hội XIII đã xác lập phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội là một trong 12 định hướng phát triển trọng yếu của đất nước giai đoạn 2021 – 2030. Văn kiện nhấn mạnh yêu cầu: “Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, an ninh con người”. Đây không chỉ là bước phát triển về mặt tư duy lý luận, mà còn thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ của Đảng trong việc gắn kết chặt chẽ giữa mục tiêu phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm sự phát triển toàn diện, bền vững và vì hạnh phúc của Nhân dân.

Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới đã đánh dấu bước phát triển quan trọng trong tư duy và định hướng của Đảng về lĩnh vực này. Báo cáo tổng kết nêu rõ: hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa XI về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012–2020 đã đạt nhiều thành tựu to lớn, khẳng định ngày càng rõ tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Kinh tế – xã hội phát triển toàn diện, hài hòa; đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân không ngừng được nâng cao; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững.

Qua thực tiễn, nhận thức của cả hệ thống chính trị và toàn dân về vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của chính sách xã hội trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ, sâu sắc hơn. Các chính sách xã hội được hoàn thiện theo hướng tiến bộ, công bằng; trong đó nổi bật là: chính sách ưu đãi, tôn vinh người có công; chương trình giảm nghèo bền vững được cộng đồng quốc tế đánh giá cao; việc làm cơ bản được bảo đảm; tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị thấp; bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế khẳng định vai trò trụ cột trong bảo đảm an sinh xã hội; hệ thống y tế, giáo dục, trợ giúp xã hội được đầu tư, mở rộng, nâng cao chất lượng, bảo đảm cho Nhân dân tiếp cận các dịch vụ thiết yếu, nhất là người yếu thế, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số.

Trên cơ sở đó, Nghị quyết 42-NQ/TW đã mở rộng toàn bộ hệ thống chính sách xã hội cho tất cả các đối tượng, dựa trên nguyên tắc toàn dân, toàn diện, bao trùm với 5 nhóm chính sách lớn: (1) ưu đãi người có công với cách mạng; (2) lao động, việc làm, phát triển nguồn nhân lực; (3) bảo đảm an sinh xã hội; (4) nâng cao phúc lợi xã hội và bảo đảm tiếp cận dịch vụ xã hội; (5) chính sách đối với nhóm yếu thế, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, người có hoàn cảnh khó khăn.

Về mục tiêu, Nghị quyết xác định đến năm 2030 phải xây dựng hệ thống chính sách xã hội bền vững, tiến bộ, công bằng; hoàn thiện an sinh xã hội đa tầng, toàn diện, hiện đại; phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiệu quả, hội nhập quốc tế, với 37 chỉ tiêu cụ thể. Tầm nhìn đến năm 2045, hệ thống chính sách xã hội Việt Nam sẽ phát triển toàn diện, tiến bộ, công bằng, bảo đảm phúc lợi và an sinh xã hội cho Nhân dân, đưa nước ta trở thành quốc gia có chỉ số phát triển con người (HDI) thuộc nhóm cao trên thế giới.

Để đạt được mục tiêu đó, Nghị quyết đề ra 9 nhóm nhiệm vụ, giải pháp có tính tổng thể, hệ thống, toàn diện, bao quát từ nâng cao nhận thức, năng lực quản lý nhà nước, đến hoàn thiện chính sách ưu đãi người có công, việc làm, an sinh xã hội, phúc lợi và dịch vụ xã hội, mở rộng hợp tác quốc tế, đồng thời nhấn mạnh vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng, phát huy sức mạnh cả hệ thống chính trị trong tổ chức thực hiện. So với Nghị quyết 15-NQ/TW (tập trung 3 nhóm nhiệm vụ, giải pháp), Nghị quyết 42-NQ/TW đã thể hiện bước phát triển vượt bậc cả về tầm nhìn, phạm vi và chiều sâu, khẳng định quyết tâm chính trị cao của Đảng trong việc xây dựng hệ thống chính sách xã hội hiện đại, nhân văn, vì con người.

Đấu tranh nhận diện
Thứ nhất: Nghị quyết 42-NQ/TW đánh dấu bước tiến mang tính đột phá trong tư duy và cách tiếp cận của Đảng về chính sách xã hội. Đây không chỉ là sự điều chỉnh về mặt hình thức, mà là sự đổi mới mang tính bản chất, thể hiện khát vọng xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, phát triển bền vững.

Điểm nhấn quan trọng nhất chính là sự chuyển dịch từ tư duy “bảo đảm và ổn định” sang “ổn định và phát triển”. Đó không chỉ là sự thay đổi câu chữ, mà là sự khẳng định tầm nhìn chiến lược của Đảng: chính sách xã hội không chỉ nhằm khắc phục khó khăn trước mắt, mà còn là động lực cho sự phát triển lâu dài. Mục tiêu hướng tới là nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân, chăm lo phát triển con người, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao và hình thành một tầng lớp trung lưu vững mạnh – nền tảng cho một quốc gia thịnh vượng, tự cường.

Thực tiễn đã chứng minh, chính sách xã hội của Đảng luôn gắn bó hữu cơ với nhiệm vụ phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, an ninh và bảo vệ Tổ quốc. Những kết quả to lớn đạt được trong nhiều năm qua đã khẳng định sự đúng đắn, sáng tạo của tư duy đổi mới này. Tuy nhiên, một số người cố tình phủ nhận, chỉ chăm chăm khai thác những hạn chế còn tồn tại để xuyên tạc bản chất, phủ nhận thành tựu. Lập luận ấy phiến diện, thiếu công bằng và không thể che mờ sự thật hiển nhiên: chính sách xã hội của Đảng đang ngày càng trở thành động lực to lớn, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển của đất nước.

Thứ hai, Nghị quyết 42-NQ/TW đã mở rộng phạm vi bao trùm toàn bộ các nhóm chính sách xã hội, trên nguyên tắc bảo đảm tính toàn dân, toàn diện. Đây là bước phát triển thể hiện rõ quan điểm nhân văn, không để bất kỳ ai bị bỏ lại phía sau. Chính sách không chỉ dừng ở ưu đãi đối với người có công hay các trụ cột an sinh cơ bản như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ giúp xã hội; mà còn được mở rộng, bao phủ đến các lĩnh vực lao động, việc làm, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao phúc lợi xã hội. Đồng thời, Nghị quyết đặt ra yêu cầu bảo đảm quyền tiếp cận bình đẳng của nhân dân đối với các dịch vụ xã hội thiết yếu: y tế, giáo dục, nhà ở, văn hóa, nước sạch, những yếu tố quyết định chất lượng cuộc sống và sự phát triển bền vững của xã hội.

Sự toàn diện đó một lần nữa khẳng định: Đảng không bỏ sót bất kỳ nhóm đối tượng nào, đặc biệt quan tâm đến những người yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo và các nhóm dễ bị tổn thương. Đây là minh chứng rõ ràng về tính ưu việt của chế độ ta, một chế độ đặt con người vào vị trí trung tâm, lấy nhân dân làm mục tiêu phục vụ.

Việc cố tình phủ nhận những kết quả của chính sách xã hội thực chất là hành vi xuyên tạc, phủ nhận nỗ lực không ngừng của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp chăm lo cho mọi tầng lớp nhân dân. Lập luận ấy không chỉ sai lạc về nhận thức, mà còn đi ngược lại thực tế sinh động của đời sống xã hội hôm nay, nơi chính sách xã hội ngày càng đi vào chiều sâu, bao phủ rộng khắp, mang lại lợi ích thiết thực cho từng người dân.

Thứ ba, Nghị quyết 42-NQ/TW đã xác định 9 nhóm giải pháp đồng bộ, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính sách xã hội. Đây là điểm mới, mang tính đột phá so với các nghị quyết trước đây, thể hiện sự chuẩn bị kỹ lưỡng, tầm nhìn sâu rộng và quyết tâm chính trị cao của Đảng trong việc hiện thực hóa mục tiêu đã đề ra.

Hệ thống giải pháp này bao trùm từ việc nâng cao nhận thức, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đến việc tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng và phát huy vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội trong thực tiễn. Đây chính là sự kết hợp hài hòa giữa “ý Đảng” và “lòng dân”, giữa sức mạnh thể chế và sức mạnh xã hội, bảo đảm tính khả thi, đồng thời tạo sự lan tỏa rộng rãi trong đời sống.

Việc đưa ra một hệ thống giải pháp cụ thể, chi tiết và toàn diện không chỉ là cơ sở khoa học để triển khai chính sách hiệu quả, mà còn là lời khẳng định về tinh thần cầu thị, quyết liệt trong đổi mới của Đảng. Điều đó cho phép khắc phục những hạn chế tồn tại trước đây, đồng thời mở ra một giai đoạn phát triển mới, nơi chính sách xã hội không còn đơn thuần là “cái phao cứu trợ” mà trở thành động lực căn bản cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Thứ tư, Nghị quyết 42-NQ/TW đã xác định rõ mục tiêu tổng quát đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, kèm theo những chỉ tiêu cụ thể, có tính tham vọng lớn. Đó là xây dựng một hệ thống chính sách xã hội bền vững, tiến bộ, công bằng; phát triển một thị trường lao động linh hoạt, hiệu quả; và đưa Việt Nam vươn lên nhóm quốc gia có chỉ số phát triển con người (HDI) cao trên thế giới. Đây không chỉ là những mục tiêu định tính mà là một lộ trình rõ ràng, mang tầm chiến lược, thể hiện khát vọng phát triển mạnh mẽ của Đảng và dân tộc ta.

Thực tiễn cho thấy, những người có tư tưởng phủ nhận thường cố tình bỏ qua tầm nhìn chiến lược ấy, chỉ chăm chú vào những khó khăn, hạn chế trước mắt để xuyên tạc, hạ thấp nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân. Đó là cách nhìn phiến diện, thiển cận, phản ánh sự thiếu hiểu biết hoặc bị chi phối bởi động cơ chính trị tiêu cực. Định hướng nâng cao chất lượng chính sách xã hội mà Nghị quyết 42-NQ/TW đưa ra chính là một luận cứ sắc bén, vững chắc để phản bác những luận điệu sai trái, thù địch. Các thế lực chống phá luôn tìm cách bôi nhọ, bóp méo, khai thác những “kẽ hở” trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách xã hội, nhằm mục đích xuyên tạc, kích động, thậm chí phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước. Đây là thủ đoạn quen thuộc, phản ánh bản chất chống phá, “đổi trắng thay đen” của họ.

Chính vì vậy, nhận diện và đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch không chỉ là nhiệm vụ tư tưởng – lý luận, mà còn là trách nhiệm chính trị của toàn hệ thống, nhằm bảo vệ tính đúng đắn, khoa học và nhân văn trong đường lối phát triển chính sách xã hội của Đảng ta. Luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch thường nhắm trực diện vào định hướng nâng cao chất lượng thực hiện chính sách xã hội mà Nghị quyết 42-NQ/TW đã xác định. Chúng tập trung công kích vào những chính sách cụ thể như: trợ giúp xã hội, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, giáo dục, chính sách đối với người có công… với mục đích làm sai lệch bản chất, phủ nhận những thành quả đã đạt được.

Các thế lực phản động cố tình rêu rao rằng chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước Việt Nam “thiếu cơ sở khoa học”, “không thể thực hiện”, thậm chí vu cáo đó chỉ là “con bài ru ngủ nhân dân”. Đây là luận điệu xuyên tạc trắng trợn, đi ngược lại thực tiễn phát triển và những thành tựu xã hội đã được quốc tế ghi nhận. Thủ đoạn quen thuộc của chúng là lợi dụng những khó khăn, vướng mắc mà người dân gặp phải trong quá trình thụ hưởng chính sách để kích động, gieo rắc tâm lý bất mãn, khoác lên chiêu bài “công bằng, dân chủ”. Thực chất, đây chỉ là chiêu trò nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đồng thời phủ nhận ý nghĩa nhân văn sâu sắc của hệ thống chính sách xã hội hiện hành.

Đáng chú ý, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị ở phương Tây cùng với những phần tử cực đoan, bất mãn chính trị đã và đang triệt để lợi dụng không gian mạng để gia tăng các hoạt động chống phá. Dưới chiêu bài “dân chủ, nhân quyền”, chúng thúc đẩy chiến lược “diễn biến hòa bình”, cổ vũ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, với mục tiêu toàn diện: từng bước làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước trong tổ chức thực hiện chính sách xã hội.

Không những vậy, chúng còn ngụy biện cho rằng những thành tựu về chính sách xã hội là do Đảng, Nhà nước Việt Nam “tự vẽ lên”, “tự mình khen mình”, chứ thực chất theo họ là “không có thật”, Việt Nam vẫn trong cảnh nghèo nàn, tụt hậu, nhân dân đói nghèo…Chúng thường đưa ra luận điệu đổi trắng thay đen, hạ thấp, phủ nhận thành tựu chính sách xã hội của Việt Nam. Chúng.cố tình xuyên tạc và rêu rao chính sách  xã hội của Việt Nam là “thiếu toàn diện”, “không vì lợi ích của nhân dân mà chỉ tập trung vào lợi ích của một số người, ở một số vùng, miền”.  Bên cạnh đó, chúng bóp méo quá trình thực thi chính sách xã hội của Nhà nước ta, cho rằng nước ta thực hiện chính sách xã hội kém hiệu quả, bị chi phối bởi “lợi ích nhóm”, “thiếu khách quan, minh bạch”.

Chúng cố tình tấn công xuyên tạc, phủ nhận các thành tựu của nước ta trong thực hiện chính sách xã hội nhằm làm suy yếu bản chất chế độ XHCN nước ta, tính nhân văn, nhân đạo trong thực hiện chính sách xã hội nhất là chính sách an sinh xã hội, gây rối loạn và mất ổn định xã hội. Chúng tập trung vào các chính sách cốt lõi ở những thời điểm quan trọng để xuyên tạc, công kích nhằm làm giảm niềm tin của nhân dân vào chế độ ta, với luận điệu “bức tranh kinh tế trong nước rất ảm đạm”, “chế độ an sinh xã hội ở Việt Nam có chiều hướng thụt lùi”, chúng lợi dụng các vấn đề như tình trạng bất ổn của giá xăng dầu, đời sống của một bộ phận người dân gặp khó khăn sau đại dịch Covid-19, tình trạng tham nhũng, tiêu cực của một số lãnh đạo, cán bộ, công chức… công kích chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước ta không đủ nguồn lực để thực hiện an sinh xã hội.

Các thế lực phản động, thù địch, phần tử cơ hội lợi dụng sự chỉ đạo quyết liệt phòng, chống tham nhũng, tiêu cực không có vùng cấm, không có ngoại lệ đối với hành vi vi phạm chính sách trợ giúp xã hội khẩn cấp trong đại dịch Covid-19 để xuyên tạc chính sách, bôi nhọ uy tín của cán bộ, đảng viên, gây hoài nghi, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân và cộng đồng quốc tế đối với Đảng và Nhà nước Việt Nam. Xuyên tạc chính sách an sinh xã hội trong phòng, chống đại dịch Covid-19 của Việt Nam, Báo cáo nhân quyền thường niên năm 2022 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công bố ngày 20/3/2023 có nhiều nội dung nhận định thiếu khách quan, ác ý, phủ nhận thành tựu thực hiện chính sách trợ giúp xã hội đối với nhóm người dễ bị tổn thương ở Việt Nam.

Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi việc giải quyết các vấn đề về an sinh xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số là một trong những mục tiêu trọng tâm, động lực quan trọng cho sự phát triển bền vững của đất nước. Hàng loạt chính sách cụ thể đã được triển khai, mang lại những thành quả vượt bậc, từng bước cải thiện đời sống vật chất, tinh thần và nâng cao vị thế của đồng bào trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thế nhưng, bất chấp những thành quả đó, các thế lực thù địch lại cố tình xuyên tạc, rêu rao rằng “đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam bị ngược đãi, phân biệt đối xử”. Chúng lợi dụng những hạn chế cục bộ, khó khăn nhất thời trong quá trình triển khai chính sách để tung ra nhiều luận điệu sai trái, nhằm chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Không chỉ vậy, chúng còn xuyên tạc rằng Đảng và Nhà nước chỉ chăm lo cho người Kinh, bỏ mặc đồng bào dân tộc thiểu số nghèo khó, lạc hậu. Đây là sự bịa đặt có chủ ý, đi ngược lại thực tiễn sinh động của đời sống xã hội, phủ nhận nỗ lực to lớn, liên tục của Đảng, Nhà nước trong công cuộc phát triển toàn diện vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Thực chất, đó là những luận điệu thâm độc, nhằm gieo rắc hoài nghi, kích động bất mãn, phá hoại niềm tin của đồng bào dân tộc đối với Đảng và Nhà nước, từ đó từng bước làm suy yếu nền tảng chính trị – xã hội của chế độ ta.

Trước những khó khăn khách quan về y tế, giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các thế lực thù địch đã rêu rao rằng chính quyền của người Kinh “ngược đãi đồng bào”, “không chú trọng chăm sóc sức khỏe, nâng cao dân trí” để “dễ bề cai trị”. Đây là luận điệu đầy ác ý, lợi dụng những tồn tại, hạn chế cục bộ để xuyên tạc chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.

Không dừng lại ở đó, chúng còn tập trung phủ nhận, xuyên tạc chính sách ưu đãi người có công. Lợi dụng một số vướng mắc trong khâu tổ chức thực hiện ở vài địa phương, chúng viết bài, đăng tải hình ảnh, thông tin trên mạng xã hội với dụng ý lập lờ, đánh tráo giá trị, “đổi trắng thay đen”. Mục đích là tạo ra sự hoài nghi, gieo rắc tâm lý bất mãn trong xã hội, khi xuyên tạc rằng Đảng, Nhà nước đã “lãng quên thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng”. Đây là sự vu khống trắng trợn, hoàn toàn trái ngược với thực tế chính sách ưu đãi người có công luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, chăm lo ngày càng đầy đủ, thiết thực hơn.

Bản chất của những hoạt động chống phá này là hạ thấp uy tín của Đảng, Nhà nước, phủ nhận năng lực điều hành của chính quyền các cấp. Chúng tìm cách chia rẽ nội bộ, kích động các hoạt động gây rối, từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý và tổ chức thực hiện chính sách xã hội của Nhà nước. Âm mưu này vô cùng nguy hiểm: nếu không tỉnh táo nhận diện, nếu không có lập trường chính trị vững vàng và cái nhìn khách quan, rất dễ rơi vào “cái bẫy” của các thế lực phản động, cơ hội chính trị. Do vậy, việc đấu tranh phản bác, vạch trần bản chất xuyên tạc, kích động này là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài, góp phần bảo vệ đường lối đúng đắn, nhân văn của Đảng và Nhà nước ta.

Gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nước ta luôn coi bảo đảm an sinh xã hội là vấn đề trung tâm trong chiến lược phát triển đất nước. Bởi lẽ, chăm lo và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân chính là một trong những mục tiêu cao nhất của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Chính phủ Việt Nam đã và đang đẩy mạnh thực hiện nhiều chính sách xã hội đồng bộ, hiệu quả, mở rộng diện bao phủ của các chương trình trợ giúp xã hội, bảo đảm ngày càng nhiều đối tượng yếu thế được quan tâm, chăm lo. Nổi bật là các chính sách hỗ trợ người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn… Những chính sách này không chỉ mang lại sự bảo đảm thiết thực về đời sống mà còn thể hiện tính nhân văn sâu sắc của chế độ ta.

Hệ thống chính sách xã hội ngày càng hoàn thiện, với phạm vi bao phủ rộng khắp, phù hợp với yêu cầu phát triển và hội nhập. Nhờ đó, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện, chất lượng cuộc sống ngày càng nâng cao.

Nhiều chương trình mục tiêu quốc gia vì người nghèo, vì an sinh xã hội nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, cùng sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành, địa phương. Thực tiễn đã chứng minh, các chương trình này đã mang lại những kết quả thiết thực, bền vững, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.

Giảm nghèo luôn là mục tiêu kiên định của Đảng và Nhà nước ta trong suốt quá trình phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, góp phần hiện thực hóa chiến lược phát triển đất nước bền vững, vì con người. Chính sách xóa đói, giảm nghèo, đặc biệt là giảm nghèo bền vững, đã được triển khai đồng bộ, hiệu quả, đem lại những kết quả thiết thực, chăm lo, hỗ trợ cho người nghèo, người yếu thế, những đối tượng có hoàn cảnh khó khăn trong xã hội.

Kết quả đạt được là những con số ấn tượng: nếu như năm 1993, tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam còn ở mức 58,1%, thì đến năm 2015 con số này đã giảm xuống còn 9,88% và đến năm 2023, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều chỉ còn 2,93%. Đây không chỉ là thành tựu trong nước, mà còn được cộng đồng quốc tế ghi nhận, coi Việt Nam là một trong những hình mẫu tiêu biểu về xóa đói, giảm nghèo.

Văn phòng đại diện Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam đã đánh giá: Việt Nam thuộc nhóm 3 quốc gia tiến bộ nhanh nhất thế giới trong thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững; đồng thời là một trong những quốc gia có tiến độ thực hiện tốt nhất các mục tiêu toàn cầu ở khu vực châu Á.

Những thành tựu ấy đã khẳng định rõ ràng: chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta hoàn toàn có cơ sở khoa học, phù hợp thực tiễn và mang tính nhân văn sâu sắc, đồng thời bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc, phủ nhận của các thế lực thù địch.

Hiện nay, Việt Nam là một trong 30 quốc gia đầu tiên trên thế giới và là quốc gia đầu tiên ở châu Á áp dụng chuẩn nghèo đa chiều. Đây là bước tiến thể hiện rõ cam kết mạnh mẽ của Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế trong việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030. Trong đó, những mục tiêu then chốt như: “Chấm dứt mọi hình thức nghèo ở mọi nơi; tạo việc làm đầy đủ, năng suất và việc làm tốt cho mọi người; bảo đảm giáo dục chất lượng, rộng mở và công bằng; giảm bất bình đẳng trong xã hội” đang từng bước trở thành hiện thực.

Hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế ngày càng được mở rộng, với tỷ lệ người dân tham gia không ngừng gia tăng. Điều này giúp ngày càng nhiều người dân được tiếp cận các dịch vụ y tế chất lượng, được bảo đảm lương hưu khi về già, qua đó giảm gánh nặng cho gia đình và xã hội, củng cố tính bền vững của hệ thống an sinh.

Bên cạnh đó, chất lượng giáo dục và y tế không ngừng được cải thiện. Sự đầu tư đồng bộ của Đảng và Nhà nước đã mang lại kết quả tích cực, góp phần nâng cao dân trí, cải thiện sức khỏe cộng đồng, tạo nền tảng cho nguồn nhân lực chất lượng cao trong tiến trình phát triển đất nước.

Đặc biệt, việc chăm lo người có công và đối tượng yếu thế luôn là ưu tiên hàng đầu. Các chính sách ưu đãi người có công với cách mạng không chỉ thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, mà còn khẳng định tính nhân văn sâu sắc của chế độ. Đồng thời, các chính sách trợ giúp xã hội dành cho người khuyết tật, người già neo đơn, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn tiếp tục được chú trọng, bảo đảm mọi người dân đều được quan tâm, chăm lo trong một xã hội công bằng, không để ai bị bỏ lại phía sau.

Những thành tựu to lớn về chính sách xã hội mà Việt Nam đạt được trong suốt thời gian qua không tự nhiên mà có, mà là kết quả trực tiếp từ sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, sự quản lý hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước, cùng với sự đồng lòng, chung sức của toàn dân tộc. Đây là minh chứng sinh động cho sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Việc cố tình phủ nhận những kết quả này không chỉ là hành vi phiến diện, thiếu công bằng, mà còn là sự xúc phạm đến nỗ lực, mồ hôi và trí tuệ của hàng triệu người Việt Nam đã và đang đóng góp vào công cuộc phát triển đất nước. Nguy hiểm hơn, đó còn là thủ đoạn tinh vi nhằm gieo rắc hoài nghi, gây hoang mang trong xã hội, từng bước làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Do vậy, nhận diện rõ và kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận thành quả chính sách xã hội chính là trách nhiệm chính trị và đạo lý của mỗi cán bộ, đảng viên và của toàn dân ta hôm nay.

Đại dịch Covid-19 đã gây ra những tác động nặng nề đối với kinh tế – xã hội toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, Chính phủ Việt Nam đã kịp thời đưa ra các giải pháp và chính sách linh hoạt, hiệu quả để tháo gỡ khó khăn cho người dân và doanh nghiệp. Song song với đó, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được đẩy mạnh với phương châm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, xử lý nghiêm minh các sai phạm, củng cố niềm tin của nhân dân.

Nhà nước luôn quan tâm triển khai hiệu quả các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chính sách tiền lương, không ngừng mở rộng đối tượng tham gia, qua đó bảo đảm an sinh, chia sẻ rủi ro và giảm gánh nặng cho xã hội. Cùng với đó, nhiều chính sách an sinh xã hội thiết thực được triển khai, chăm lo đời sống nhân dân, nhất là đối tượng chính sách và người yếu thế. Ở khắp các địa phương, cả hệ thống chính trị đã vào cuộc, huy động nhiều nguồn lực cho công cuộc xóa đói, giảm nghèo, tạo sự đồng thuận và lan tỏa mạnh mẽ trong xã hội.

Những thành tựu đó là kết quả của sự chung tay, đồng lòng từ Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp cho đến toàn thể nhân dân. Đây cũng chính là bằng chứng thuyết phục để bác bỏ các quan điểm sai trái, những luận điệu xuyên tạc phủ nhận chính sách an sinh xã hội, cũng như những nỗ lực không ngừng vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân.

Thực tiễn đổi mới ở Việt Nam đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ đem lại hiệu quả tích cực về kinh tế, mà còn giải quyết tốt hơn nhiều các vấn đề xã hội so với những nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển. Điều này đã được minh chứng rõ ràng bằng các chỉ số, số liệu phát triển kinh tế – xã hội toàn diện của Việt Nam, cũng như những đánh giá khách quan từ các tổ chức quốc tế có uy tín.

Sau gần 40 năm Đổi mới, từ một quốc gia bị tàn phá nặng nề bởi nhiều cuộc chiến tranh, nghèo nàn, lạc hậu, thiếu đói, lại bị bao vây, cấm vận suốt ba thập kỷ, Việt Nam đã vươn mình mạnh mẽ trở thành nước có thu nhập trung bình. Đến năm 2023, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 4.300 USD, tăng gần 60 lần so với năm 1986.

Kinh tế Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân trên 6,5%/năm, nằm trong nhóm các quốc gia có mức tăng trưởng cao hàng đầu khu vực và thế giới. Quy mô nền kinh tế đạt khoảng 430 tỷ USD năm 2023, đứng thứ 35 toàn cầu, tăng hơn 95 lần so với năm 1986.

Những con số biết nói ấy không chỉ phản ánh sự phát triển vượt bậc của đất nước, mà còn là minh chứng rõ ràng cho tính đúng đắn của đường lối Đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, khẳng định bản lĩnh, trí tuệ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong hành trình vươn lên mạnh mẽ giữa nhiều khó khăn, thách thức.

Theo công bố của Diễn đàn Kinh tế thế giới năm 2019, năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam xếp hạng 67/141 quốc gia, cho thấy vị thế ngày càng được nâng cao. Năng suất lao động cũng tăng mạnh, từ mức 4,3%/năm giai đoạn 2011–2015 lên 6,0%/năm giai đoạn 2016–2020. Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam vươn lên 41/131 quốc gia và vùng lãnh thổ, dẫn đầu các nước có cùng mức thu nhập. Đặc biệt, theo Brand Finance (Anh), năm 2020, giá trị thương hiệu quốc gia Việt Nam đạt 319 tỉ USD, tăng 29% so với 2019 – mức tăng nhanh nhất thế giới.

Ở lĩnh vực xã hội và an sinh, Việt Nam đang trở thành hình mẫu phát triển toàn diện, bền vững. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 40% lên 64,5%; lao động có bằng cấp, chứng chỉ tăng từ 14,6% lên 24,4%. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn khoảng 2,7% theo chuẩn nghèo đa chiều. Đến nay, 62% xã và 173 huyện đạt chuẩn nông thôn mới; hơn 9,2 triệu người có công được giải quyết chế độ chính sách. Việt Nam được thế giới đánh giá là một trong những hình mẫu thành công về xóa đói, giảm nghèo trong suốt 30 năm qua.

Chính sách bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội cũng đạt kết quả ấn tượng: tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế vượt trên 93%, tiến gần mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân. Việt Nam hoàn thành trước hạn nhiều chỉ tiêu trong Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG) và được Liên hợp quốc ghi nhận là một trong những quốc gia đi đầu trong thực hiện Mục tiêu Phát triển bền vững (SDG).

Chỉ số phát triển con người (HDI) cải thiện rõ rệt: năm 2019, Việt Nam lần đầu tiên được xếp vào nhóm cao của thế giới với 0,704 điểm, đứng hạng 117/189 quốc gia và vùng lãnh thổ – vượt xa nhiều nước có cùng mức thu nhập. Tuổi thọ trung bình của người Việt tăng từ 65,5 tuổi năm 1993 lên 74,5 tuổi năm 2023. Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam cũng tăng 11 bậc, từ vị trí 65 lên vị trí 54/143 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Đặc biệt, công tác giáo dục, chăm sóc trẻ em, phát huy vai trò người cao tuổi, thúc đẩy bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ đạt nhiều kết quả quan trọng. Chất lượng y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng nâng cao, mạng lưới y tế được mở rộng khắp cả nước, chủ động ứng phó thành công với nhiều dịch bệnh nguy hiểm. Đặc biệt trong đại dịch Covid-19, Việt Nam đã trở thành một “điểm sáng”, được quốc tế ghi nhận là “đi sau về trước”, kịp thời ngăn chặn, kiểm soát dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe và tính mạng Nhân dân.

Một số chỉ số và thành tựu khác cũng khẳng định vị thế, uy tín ngày càng cao của Việt Nam trên trường quốc tế. Chỉ số chính phủ điện tử năm 2020 do Liên Hợp quốc công bố, Việt Nam xếp hạng 86/193 quốc gia, vùng lãnh thổ, tăng 2 bậc so với năm 2018, trong đó chỉ số hạ tầng viễn thông tăng mạnh tới 31 bậc. Chính phủ đã ban hành và triển khai Chiến lược chuyển đổi số quốc gia, với mục tiêu xây dựng chính phủ số, kinh tế số, xã hội số đến năm 2025, tầm nhìn 2030. Đặc biệt, theo Chỉ số quyền lực châu Á (Asian Power Index) năm 2020 do Viện Lowy công bố, Việt Nam xếp 12/26 quốc gia, vùng lãnh thổ, thậm chí vượt cả New Zealand.

Trong nước, Việt Nam luôn bảo đảm ổn định chính trị – xã hội, giữ vững, củng cố quốc phòng – an ninh, kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Đồng thời, quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hiệu quả; thế và lực của đất nước, sức mạnh tổng hợp quốc gia cũng như uy tín quốc tế không ngừng được nâng cao.

Thế nhưng, các thế lực thù địch vẫn triệt để lợi dụng, khai thác những sự việc chưa được kiểm chứng, thậm chí bịa đặt sai sự thật, rồi phóng đại, quy chụp, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là trong lĩnh vực an sinh xã hội. Mục tiêu không gì khác ngoài việc làm lung lạc, bóp méo niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta.

Giải pháp
Trong giai đoạn tới, toàn hệ thống chính trị cần tiếp tục triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp theo tinh thần Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24-11-2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới”. Đây chính là kim chỉ nam định hướng để chính sách xã hội thực sự trở thành động lực phát triển, trụ cột an sinh bền vững trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Nhà nước cần tiếp tục huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội, doanh nghiệp và nhân dân trong việc quản lý, phát triển xã hội. Chỉ có như vậy, chúng ta mới có thể xây dựng một xã hội phát triển bền vững, công bằng, văn minh, nhân văn theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đồng thời, để đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc, phủ nhận thành quả chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam, cần tập trung thực hiện đồng bộ một số nhóm giải pháp trọng tâm như:

Thứ nhất, cần quán triệt sâu sắc và đẩy mạnh tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về vai trò đặc biệt quan trọng của chính sách xã hội trong giai đoạn mới. Việc tuyên truyền phải tập trung vào những quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp mà Nghị quyết số 42-NQ/TW đã đề ra, bảo đảm đến được với đội ngũ cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý và đông đảo Nhân dân, đặc biệt là những người đứng đầu.

Qua đó, cần khẳng định quyết tâm chính trị trong xây dựng và thực hiện chính sách xã hội theo hướng bền vững, lấy quyền con người, vì con người, lấy con người làm trung tâm và là chủ thể của sự phát triển. Đồng thời, phát huy những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc, kết hợp với việc tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại, từ đó tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

Thứ hai, cần tăng cường nắm chắc tình hình, chủ động phát hiện, đấu tranh và vô hiệu hóa kịp thời mọi âm mưu, hoạt động xuyên tạc, bịa đặt, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, phải theo sát diễn biến tư tưởng, tâm trạng xã hội, kịp thời xử lý những vấn đề phức tạp nảy sinh trong quá trình nâng cao chất lượng thực hiện chính sách xã hội.

Song song với đó, cần triển khai đồng bộ các biện pháp để hoàn thiện hệ thống pháp luật về chính sách xã hội, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, khả thi, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, đồng thời tiệm cận các chuẩn mực quốc tế. Trên cơ sở đó, tổ chức thực hiện chính sách phải đi vào thực chất, hiệu quả, mang lại niềm tin cho Nhân dân.

Bên cạnh đó, cần nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cá thể hóa trách nhiệm trong tổ chức thực hiện. Cải cách hành chính phải được thúc đẩy theo hướng công khai, minh bạch, nêu cao trách nhiệm giải trình, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho Nhân dân trong việc tiếp cận và thụ hưởng các chính sách xã hội.

Thứ ba, cần tích cực, chủ động bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong lĩnh vực thực hiện chính sách xã hội, coi đây là nhiệm vụ trọng yếu, xuyên suốt. Đồng thời, phải chủ động tham gia và có tiếng nói trực tiếp, đóng góp tích cực vào quá trình định hình các giá trị, chuẩn mực cũng như luật pháp quốc tế về quyền con người, qua đó khẳng định vai trò, vị thế và quan điểm đúng đắn của Việt Nam trên trường quốc tế.

Cùng với đó, cần đổi mới nội dung, phương thức đấu tranh, bảo vệ hiệu quả thành quả mà Nhà nước ta đã đạt được trong thực hiện chính sách xã hội. Hoạt động đấu tranh phải được đa dạng hóa hình thức, dựa trên nguyên tắc kiên định về quan điểm, vững vàng về lập trường, nhưng đồng thời mềm dẻo, linh hoạt, nhân văn trong phương pháp, bảo đảm tính công khai, minh bạch, dân chủ. Qua đó, góp phần tạo dựng dư luận xã hội lành mạnh, đồng thuận, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và tính ưu việt của chế độ ta.

Thứ tư, cần kiên quyết ngăn chặn, xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật, chống phá, gây mất ổn định chính trị – xã hội tại Việt Nam. Việc xử lý phải bảo đảm tính răn đe, kịp thời, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, qua đó củng cố kỷ cương, pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ vững chắc ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội.

Song song với đó, cần chủ động công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng cả trong nước và quốc tế những thành quả to lớn, thực chất của Việt Nam trong thực hiện chính sách xã hội. Đây không chỉ là hoạt động truyền thông minh bạch, khách quan, mà còn là minh chứng thuyết phục, bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc, đồng thời khẳng định hình ảnh một Việt Nam ổn định, phát triển, nhân văn và trách nhiệm trước cộng đồng quốc tế.

Thứ năm, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đồng thời thực hiện nghiêm túc việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm trong đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực xã hội. Quá trình này phải gắn liền với việc lắng nghe dư luận Nhân dân, tiếp nhận ý kiến giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội, từ đó nâng cao hiệu quả đấu tranh, bảo đảm tính khách quan và sức thuyết phục.

Cùng với đó, cần chú trọng phát hiện, nhân rộng những nhân tố tích cực, điển hình tiên tiến, những cán bộ, đảng viên, chức sắc tôn giáo tiêu biểu trong sự nghiệp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên lĩnh vực thực hiện chính sách xã hội. Đây chính là những hạt nhân nòng cốt, góp phần lan tỏa tinh thần đấu tranh kiên quyết, bền bỉ trong toàn xã hội.

Đặc biệt, phải chăm lo chu đáo, toàn diện cho người có công với cách mạng. Chính sách ưu đãi người có công cần tiếp tục được quan tâm hàng đầu, với mục tiêu nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, nhất là đối với những người ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Cần từng bước nâng mức chuẩn trợ cấp, phụ cấp ưu đãi, bảo đảm đây là mức cao nhất trong các chính sách xã hội. Đồng thời, có chính sách ưu tiên thiết thực trong chăm sóc sức khoẻ, hỗ trợ nhà ở, giáo dục – đào tạo, việc làm và sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi để người có công và thân nhân tiếp cận đầy đủ, bình đẳng các dịch vụ xã hội.

Thứ sáu, cần phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, mang tính chia sẻ trách nhiệm giữa Nhà nước, xã hội, người dân và giữa các nhóm dân cư, bảo đảm bền vững và công bằng xã hội. Trọng tâm là xây dựng một hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại và hội nhập quốc tế, đủ khả năng bao phủ toàn bộ lực lượng lao động.

Cùng với đó, phải tiếp tục cải cách và mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để mọi người lao động đều có cơ hội tham gia, đồng thời bảo đảm quyền lợi hợp pháp, chính đáng của họ. Đây chính là nền tảng vững chắc để củng cố niềm tin của nhân dân, góp phần phát triển xã hội bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ bảy, cần nâng cao nhận thức và trách nhiệm chính trị của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và cả hệ thống chính trị các cấp, đặc biệt là người đứng đầu trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về chính sách xã hội.

Đồng thời, phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, gắn kết chặt chẽ với sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên động lực to lớn trong quá trình thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm mọi chính sách thực sự đi vào cuộc sống, phục vụ nhân dân, vì mục tiêu phát triển bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Định hướng của Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24/11/2023, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về “tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới” là một bước tiến quan trọng, khẳng định tầm nhìn chiến lược và quyết tâm chính trị của Đảng trong việc hoàn thiện chính sách xã hội, hướng tới một xã hội công bằng, văn minh, phát triển bền vững.

Những đổi mới về cách tiếp cận, phạm vi, giải pháp và mục tiêu không chỉ minh chứng cho sự sáng tạo, nhạy bén của Đảng, mà còn mở ra hướng đi đúng đắn để chính sách xã hội thực sự trở thành động lực phát triển đất nước.

Trước những tư tưởng sai trái, xuyên tạc, phủ nhận thành quả chính sách xã hội, chúng ta cần kiên quyết đấu tranh, sử dụng các luận cứ khoa học, bằng chứng thực tiễn để bảo vệ quan điểm đổi mới của Đảng, đồng thời khẳng định rõ những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Việt Nam đã đạt được.

Chỉ khi tạo dựng được sự đồng thuận xã hội, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chúng ta mới có thể thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Nghị quyết, đưa Việt Nam vững bước trên con đường xây dựng một đất nước hùng cường, thịnh vượng, trường tồn theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Dưới ánh sáng Nghị quyết 42-NQ/TW, với niềm tin sắt son vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý hiệu quả của Nhà nước và sức mạnh đồng lòng của toàn dân tộc, chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng mọi khó khăn, thách thức sẽ được vượt qua. Mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân Việt Nam cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, phát huy ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết một lòng, kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu xuyên tạc, phủ nhận thành quả chính sách xã hội.

Vì một Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vì khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng, hãy cùng nhau chung sức, đồng lòng hiện thực hóa thắng lợi Nghị quyết 42-NQ/TW – để Tổ quốc ta vững bước trên con đường phát triển bền vững, hội nhập và tỏa sáng trong thời đại mới!

PGS.TS.Trần Thị Minh Ngọc/Học viện Chính trị Khu vực I

Tài liệu tham khảo
1.Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, 1987, tr.86
2.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 79
3.Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr.101.
4.Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011,tr.79.
5.Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 01 tháng 06 năm 2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI Về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020.
6.Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận-thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Nxb CTQG, H, 2015, tr.105.
7.Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H, 2016, tr.134-135.
8.Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t. 1,Nxb CTQG, H,2021,  tr.147-148.
9.Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24-11-2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
10.Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2022 đạt 732 tỷ USD; bước vào năm 2024, xuất khập khẩu phục hồi mạnh mặc dù gặp nhiều khó khăn, trong 6 tháng đầu năm đạt mức kỷ lục 368,5 tỷ USD, tăng 17,5% so với cùng kỳ năm 2023.
11.Theo đánh giá của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2022, triển khai nhiệm vụ năm 2023 của Chính phủ với các địa phương.