Thứ Năm, Tháng 3 6, 2025
* Email: bbt.dongnama@gmail.com *Tòa soạn: 0989011688 - 0768908888
spot_img

Để thương hiệu trà Thái Nguyên thêm vươn xa



ĐNA -

Với diện tích trên 22,2 nghìn ha, sản lượng trà búp tươi đạt 272 nghìn tấn/năm, Thái Nguyên đang là địa phương dẫn đầu cả nước về diện tích và sản lượng trà (chiếm 18,3% diện tích và 24% sản lượng trà búp tươi toàn quốc).

Một trong những hướng đi trọng tâm của tỉnh Thái Nguyên là phát triển du lịch cộng đồng sinh thái gắn với văn hóa trà. Ảnh: Thu Hương.

Nhằm nâng cao giá trị kinh tế của cây trà, những năm qua việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất trà luôn được tỉnh Thái Nguyên đặc biệt quan tâm. Các giống trà được trồng tại Thái Nguyên khá phong phú. Ngoài giống trung du, tỉnh đã quan tâm chuyển đổi sang các giống mới (như LDP1, Kim Tuyên, Hương Bắc Sơn, TRI777, TRI5.0, Bát Tiên, Phúc Vân Tiên, PH1, PH12…). Những giống mới này có thể đáp ứng nguyên liệu cho sản xuất nhiều dòng sản phẩm khác nhau, như trà xanh, trà xanh cao cấp, trà đen, trà ướp hương và sản phẩm tinh chất phục vụ chế biến thực phẩm, làm đẹp, dược liệu…

Ngành trà địa phương có sự phát triển mạnh mẽ nhờ việc ứng dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh trà an toàn, đặc biệt là tiêu chuẩn VietGAP và hữu cơ. Công nghệ tưới nước tiết kiệm cũng được ứng dụng rộng rãi. Nhờ những nỗ lực này, đã có trên 7.000 ha trà của Thái Nguyên lắp đặt hệ thống tưới nước tự động, bán tự động; 5.900 ha trà được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP và hữu cơ. Qua đó, mở ra cơ hội xuất khẩu và tiêu thụ trong nước với giá trị gia tăng.

Điều quan trọng hơn cả là tư duy, phương pháp sản xuất của người trồng trà thay đổi theo hướng tích cực. Một lãnh đạo của Hợp tác xã trà Tuất Thoi (xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ) cho biết, họ đã dần thay đổi cách làm trong sản xuất, tăng sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc sinh học, hữu cơ, giảm sử dụng phân bón vô cơ, thuốc bảo vệ thực vật hóa học. Điều này không chỉ mang lại giá trị kinh tế cao cho cây chè, mà còn có lợi cho sức khỏe của chính những người nông dân và bảo vệ môi trường sinh thái.

Trong chế biến, người làm trà đã ứng dụng cơ giới hóa ở tất cả các khâu. Một số doanh nghiệp, hợp tác xã còn ứng dụng công nghệ tự động hóa, đa dạng hóa sản phẩm, chế biến hồng trà, Matcha, Kombucha, trà lắc… Với thành phẩm, bao bì, nhãn mác đẹp, phù hợp thị hiếu người tiêu dùng. Điển hình như trà VKombucha do Sở Khoa học và Công nghệ Thái Nguyên hợp tác với Công ty cổ phần Tập đoàn Vgreen nghiên cứu sản xuất. Đây là loại trà lên men từ những lá trà 100% thành phần tự nhiên, bao gồm 15 vị khác nhau, hoa quả tươi và thảo mộc được ủ cùng men Scoby theo công thức Kombucha độc quyền của Tập đoàn Vgreen.

Một trong những địa phương trồng và chế biến trà điển hình là huyện Phú Lương. Trên địa bàn huyện hiện có 45 làng nghề trà, trong đó có 10 làng nghề truyền thống, tập trung ở các xã: Vô Tranh, Tức Tranh, Phú Đô, Yên Lạc. Tổng diện tích trồng trà hiện có của huyện là khoảng 2.000 ha. Những năm gần đây, người dân Phú Lương chú trọng đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào sản xuất, chăm sóc trà theo tiêu chuẩn VietGAP, quy trình hữu cơ, đầu tư nhiều máy móc, thiết bị hiện đại phục vụ sản xuất… Qua đó góp phần nâng cao giá trị sản phẩm và thu nhập từ cây trà.

Bà Nguyễn Thị Thu Trang, Trưởng Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện cho biết: “Để nâng cao giá trị các sản phẩm trà, thời gian qua, chúng tôi đã phối hợp với các xã đẩy mạnh tuyên truyền, khuyến khích người dân chuyển đổi sáng trồng các giống trà cho năng suất, chất lượng cao. Đơn vị cũng phối hợp với Chi cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thái Nguyên) tổ chức tập huấn cho người dân về sản xuất trà theo tiêu chuẩn VietGAP, quy trình hữu cơ. Tham mưu với UBND huyện bố trí kinh phí hỗ trợ máy sao trà, vò trà, tem truy xuất nguồn gốc sản phẩm, cấp giấy chứng nhận VietGAP. Đồng thời, duy trì và phát triển nhãn hiệu “Chè Phú Lương” (được Cục Sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu từ đầu năm 2021), nhãn hiệu tập thể “Chè Vô Tranh”, “Chè Tức Tranh”… Hiện nay, trên địa bàn huyện đã có 40 tổ hợp tác sản xuất trà được thành lập, với trên 4.600 lao động. Nếu như năm 2019, trà giống mới tại các làng nghề chỉ chiếm 50% diện tích thì nay đạt 70%. Chủ yếu là các giống: LDP1, TRI777, phúc vân tiên, bát tiên, phúc thọ, kim tuyên…”.

Để tạo tiền đề cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu, tỉnh Thái Nguyên đã xây dựng, thiết lập 55 mã vùng trồng trà với hơn 1.000 ha được gắn định vị trên hệ thống toàn cầu GPS. Bên cạnh đó, tỉnh đẩy mạnh bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với cây trà. Hiện nay, Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) đã cấp 01 chỉ dẫn địa lý Tân Cương, 10 nhãn hiệu tập thể, 02 nhãn hiệu chứng nhận cho chè Thái Nguyên. Ngoài ra, nhãn hiệu tập thể “Chè Thái Nguyên” được bảo hộ tại 6 quốc gia và vùng lãnh thổ gồm: Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc). Chỉ dẫn địa lý “Tân Cương” được công nhận bảo hộ tại Liên minh châu Âu (EU) thông qua Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA). Đây là điều kiện thuận lợi để nâng cao giá trị, năng lực cạnh tranh, hỗ trợ xuất khẩu sản phẩm trà của tỉnh, đồng thời hạn chế nguy cơ bị chiếm đoạt nhãn hiệu tại thị trường quốc tế.

Nắm bắt xu thế công nghệ 4.0, ngành trà Thái Nguyên đang hướng tới mục tiêu hiện đại hóa, thông qua ứng dụng máy bay không người lái (UAV/Drone) trong hoạt động sản xuất. Tiêu biểu là mới đây, tại Hợp tác xã trà Hảo Đạt (xã Tân Cương, TP. Thái Nguyên) đã có buổi trình diễn thử nghiệm ứng dụng UAV/Drone để phun tưới và vận chuyển trà. Đây là bước tiến quan trọng nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và phát triển nông nghiệp bền vững. Các thiết bị bay không người lái hiện đại đã thể hiện khả năng vận chuyển chè từ đồi về điểm tập kết một cách nhanh chóng, hiệu quả. Bên cạnh đó, công nghệ phun tưới tự động với độ chính xác cao của Drone, có thể nhận diện địa hình, tự động điều chỉnh lượng nước và thuốc bảo vệ thực vật phù hợp. Mong muốn hiện nay của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trà là sớm được ứng dụng trong thực tiễn các công nghệ số, công nghệ mới nhằm giúp người nông dân giảm sức lao động, tăng năng suất, đem lại hiệu quả kinh tế cao.

Thông qua việc tích cực ứng dụng khoa học kỹ thuật, thương hiệu trà Thái Nguyên tiếp tục được nâng cao, thị trường được mở rộng. Sản lượng trà qua chế biến toàn tỉnh đạt 54,6 nghìn tấn/năm; giá trị sản phẩm chè năm 2024 đạt gần 14 nghìn tỷ đồng; tổng khối lượng xuất khẩu chè đạt trên 1.000 tấn, giá trị xuất khẩu đạt trên 1,6 triệu USD.

Thời gian tới, tỉnh Thái Nguyên xác định sẽ đẩy mạnh việc chuyển đổi phương thức sản xuất từ canh tác truyền thống sang canh tác theo tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ. Triển khai một số đề tài nghiên cứu xác định thành phần các chất trong trà có lợi cho sức khỏe, công dụng của trà. Khuyến khích, tạo điều kiện hơn nữa cho các dự án khoa học, công nghệ đầu tư vào chế biến sâu các sản phẩm từ trà có chất lượng, giá trị cao. Tăng cường liên kết sản xuất hình thành vùng nguyên liệu chất lượng cao, có khả năng đáp ứng đơn hàng lớn có giá trị lớn. Đa dạng hóa sản phẩm theo hướng tiếp cận với nhiều đối tượng khách hàng. Chú trọng quảng bá và kết nối tiêu thụ sản phẩm trên những kênh phân phối qua hệ thống siêu thị, sàn thương mại điện tử. Đáng chú ý là việc tăng cường khai thác tiềm năng phát triển du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, trải nghiệm gắn với văn hóa trà…

Sơn Nguyễn