Thứ tư, Tháng mười 9, 2024
* Email: bbt.dongnama@gmail.com *Tòa soạn: 0989011688 - 0768908888
spot_img

Điện Long An, một tuyệt phẩm kiến trúc Việt thời Nguyễn

ĐNA -

(Huế). Điện Long An là tòa cung điện hiện nay được sử dụng làm nhà trưng bày chính của Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế. Đây là công trình được xây dựng từ thời vua Thiệu Trị, thời kỳ cực thịnh của mỹ thuật cung đình Nguyễn nên điện Long An dường như hội tụ được những gì tinh túy nhất của nghệ thuật kiến trúc và trang trí của thời kỳ này. Trải qua gần 180 năm tồn tại (1845-2022), điện Long An vẫn được bảo tồn tương đối hoàn mỹ và trở thành một trong những công trình kiến trúc gỗ đặc sắc nhất của Việt Nam.

Điện Long An ngày nay. Ảnh trong bài: Bảo Minh

Năm 1845, vua Thiệu Trị cho xây dựng biệt cung Bảo Định bên bờ bắc sông Ngự Hà, gần cung Khánh Ninh (vốn là biệt cung của vua Minh Mạng, sau chuyển thành miếu thờ riêng của vị hoàng đế này). Cung Bảo Định là một tổ hợp kiến trúc gồm hơn chục công trình khác nhau với nhiều loại hình: điện, đình, lang, tạ, hiên, các… trong đó điện chính là điện Long An. Tại toà điện có bình diện khoảng 1000m2 này, nhà vua nổi tiếng hay chữ Thiệu Trị đã cho chạm khắc, ghép, cẩn hàng trăm bài thơ trên liên ba, đố bản ở cả nội và ngoại thất, khiến công trình trở thành một bảo tàng thơ thu nhỏ rất độc đáo.

Sau khi vua Thiệu Trị băng hà, cung Bảo Định trở thành miếu thờ riêng của hoàng gia. Đến năm 1885, sau vụ “Thất thủ kinh đô”, quân Pháp đã tràn vào chiếm đóng và tàn phá một số kiến trúc thuộc cung, việc thờ cúng vua Thiệu Trị tại đây tạm thời bị đình chỉ do triều Nguyễn cho rằng công trình “đã bị ô uế bởi bọn Pháp –lang- sa”.

Nội thất điện Long An

Năm 1908, sau khi quyết định dời trường Quốc Tử Giám ở phía tây chùa Thiên Mụ về bên trong Kinh thành, triều vua Duy Tân đã cho tháo dỡ phần lớn kiến trúc cung Bảo Định để làm trụ sở mới cho trường. Toà điện Long An được đưa về làm thư viện chính của Quốc Tử Giám. Tại đây, đầu năm 1913, Hội Những Người Yêu Huế (Đô Thành Hiếu Cổ Hội) đã được thành lập. Hoạt động của Học hội nổi tiếng này gắn liền với điện Long An cho đến năm 1945, khi Nhật hất cẳng Pháp ở Đông Dương. Cũng nhờ hoạt động sưu tầm của Hội mà năm 1923, vua Khải Định đã ra chỉ dụ thành lập Bảo tàng Khải Định (Musée Khai Đinh) và sử dụng điện Long An làm trụ sở chính.

Sinh thời, Họa sĩ Phạm Đăng Trí, một bậc thầy về nghệ thuật của đất Cố đô trong thế kỷ XX đã từng hết lời ngợi ca vẻ đẹp của điện Long An. Trong ký ức của ông, ngôi điện này dường như là đỉnh cao của mỹ thuật Nguyễn, vẻ đẹp của công trình này đã cuốn hút ông một cách mãnh liệt: “Những lần tôi đến đây thường say sưa ngắm những ô hộc chạm xương hay khảm xà cừ nằm trong những liên ba thành vọng đủ cỡ viền quanh mấy hàng cột trông giống như những nghi môn có lớp cao lớp thấp. Càng ngắm tôi càng nhận thấy phần trang trí trong kiến trúc thời Thiệu Trị là tinh vi hơn cả so với những thời khác tại Huế. Nó vừa lộng lẫy lại vừa thanh nhã và khéo điểm sáng những chỗ chính, tô mờ những chỗ phụ trang sức trong những đoạn cần thiết mà thôi”.

Nhiều nhà nghiên cứu sau khi thăm Huế đã nhận xét, trong muôn ngàn cổ vật của Bảo tàng Huế, điện Long An chính là một trong những cổ vật đáng chú nhất. Đây cũng là điều dễ hiểu, vì công trình này vốn đã được đánh giá là cung điện đẹp nhất của Kinh Thành Huế xưa.

Về mặt kiến trúc, điện Long An là một tòa nhà kép, theo lối “trùng lương trùng thiềm” hay “trùng thiềm điệp ốc”. Tức là một công trình ghép từ hai tòa nhà theo lối nối mái. Tiền điện có 7 gian và 2 chái đơn, chính điện gồm 5 gian 2 chái kép. Tiền điện và chính điện được nối với nhau qua một hệ thống trần thừa lưu (thường được gọi nôm na là “trần vỏ cua”), chạm trổ cực kỳ tinh xảo đặt chạy dài suốt 5 gian chính và 2 chái bên. Nhờ sự lắp ghép rất khéo nên toàn bộ ngôi điện vẫn có một không gian thống nhất. Sự cách biệt giữa các khu vực trong không gian nội thất được tạo nên bằng hệ thống vách ngăn chạy quanh 3 mặt của 5 gian Chính điện và hệ thống rầm hạ (tức phần sàn gỗ được nâng cao). Tuy nhiên về sau, do sử dụng với chức năng mới (Thư viện rồi Bảo tàng), phần lớn hệ thống vách ván ngăn trên đã bị dỡ bỏ. Chính sự cải biến này đã khiến không gian ngôi điện càng thêm sâu, gồm đến 8 gian liên tiếp (2 gian Tiền điện, gian vì Vỏ cua và 5 gian của Chính điện). Không gian ấy lại được nối dài thêm bằng phần mái lưa (mái hiên) vươn ra phía trước. Như vậy, cách cấu trúc ghép đôi kiểu điệp ốc như trên tạo cho điện Long An có dáng vẻ một ngôi điện kiểu 9 gian khá vuông vắn và bề thế. Toàn bộ ngôi điện với tổng diện tích mặt nền hơn 1000m2  ấy lại được đặt trên một nền đắp cao 1,1m, bó vỉa bằng đá cẩm thạch và đá thanh nên trông càng đồ sộ.

Bộ khung điện Long An dựa trên hơn trăm cây cột bằng gỗ lim đặt trên chân đá táng. Kích thước cột vừa phải và trông khá thanh mảnh. Phần trang trí cho hệ thống cột chủ yếu thể hiện qua những “con bọ” được chạm trổ tinh xảo gắn ở phía đầu cột và hệ thống con-xơn mang hình dạng đấu củng đặt ở các cột hiên. Chính đây là những điểm nhấn có chủ ý của người xưa để “dẫn dắt” người ngắm công trình bị lôi cuốn vào vẻ đẹp lộng lẫy của các phần trang trí đặt ở phía trên cột.

Hai bài thơ ngự chế nổi tiếng của vua Thiệu Trị được khảm xà cừ trên vách ván ngôi điện

Đó là hệ thống liên ba đố bản làm nhiệm vụ phân định giữa các gian của tiền điện và chính điện với 1.155 ô hộc trang trí liên hoàn theo lối “nhất thi nhất họa” và “nhất tự nhất họa”. Đây là lối trang trí phổ biến trong các cung điện Huế, nhưng thay vì sơn son thếp vàng, các nghệ nhân đời Thiệu Trị lại dùng các chất liệu như xương, ngà voi, xà cừ… khảm trực tiếp lên các thành phần kiến trúc để mộc, tạo nên những nét đẹp giản dị mà tinh tế. Xen kẽ giữa những ô hộc trang trí ấy là những đại tự và những bài thơ chữ Hán, là những lời chúc tốt lành và ca ngợi cảnh thái bình, thịnh trị. Trong số 578 ô thơ và đại tự trang trí ở nội thất và ngoại thất điện Long An, có hai thi phẩm đặc biệt, đến nay vẫn là điều bí ẩn đối với các nhà Hán học hậu thế trong việc nghiên cứu và khám phá nghệ thuật chơi chữ của cổ nhân. Đó là bài Vũ trung sơn thủy và bài Phước viên văn hội lương dạ mạn ngâm của vua Thiệu Trị. Mỗi bài thơ chỉ có 56 chữ Hán, xếp theo thể hồi văn kiêm liên hoàn, tạo thành 64 bài thơ khác nhau. Với lối trang trí này, các nghệ nhân thời Nguyễn đã khéo léo kết hợp thành công giữa kiến trúc và trang trí, giữa thi và họa, giữa tạo hình và tạo tứ, khiến ta không phân biệt đâu là kiến trúc, đâu là trang trí; đâu là nghệ thuật, đâu là tư tưởng.

Nhưng đặc biệt nhất, phải là hệ thống vì nóc của Tiền điện. Tám bộ vì nóc được tạo tác bằng nghệ thuật chạm lộng và chạm nổi trên những khúc gỗ liền khối tạo nên 8 đồ án “lưỡng long tranh châu” đồ sộ và vô cùng tinh xảo. Phong cách này khác hẳn kiểu vì nóc “chồng rường – giả thủ” thường thấy trong các cung điện thời Nguyễn tại  Huế. Nhiều du khách đến tham quan điện Long An, khi ngắm các bộ vì này đều cho rằng đó là những tác phẩm mỹ thuật hơn là những cấu kiện kiến trúc có chức năng chịu lực. Nhưng chính đó là đặc điểm tiêu biểu nhất trong nghệ thuật kiến trúc điện Long An- các kết cấu kiến trúc cũng mang chức năng trang trí mỹ thuật.

Bộ mái của điện Long An nguyên thủy lợp ngói âm dương tráng men vàng, bên dưới có gần chục lớp ngói liệt, mái chia làm nhiều lớp để giảm bớt sự nặng nề. Đỉnh nóc chính điện đắp hình đầu rồng đội hạt trân châu, hai đầu bờ nóc gắn hồi long, bốn góc bờ quyết có tượng long lân quy phụng đắp bằng vữa khảm sành sứ. Hàng cột hiên thanh thoát cắm thẳng xuống mặt sân, tạo cho ngôi điện một “chiều cao ảo”, nhằm hạn chế cảm giác ngôi điện quá thấp khi nhìn từ ngoài vào.

Rất nhiều thơ văn ngự chế được khảm bằng ngà, xương, xà cừ trên vách ván, liên ba, đố bản của ngôi điện, chúng đã được ghi vào danh mục di sản tư liệu thế giới khu vực châu Á- Thái Bình Dương từ năm 2016.

Chính nghệ thuật cấu trúc và trang trí đã tạo cho điện Long An một vẻ sang trọng và quyến rũ đặc biệt.
Hệ thống  mái được tô điểm bằng những hình trang trí mang tính quy ước: mặt hổ phù, quả cầu, rồng chầu, dơi ngậm kim tiền hay bộ tứ linh: long, lân, quy, phụng ở các đầu đao nóc mái. Nhưng nét đặc sắc nhất ở đây chính là những mảng trang trí chạm khắc trên gỗ cả trong và ngoài ngôi điện. Từ ngoài vào trong, bắt đầu từ dãy con – xơn trên đầu hàng cột hiên đã là những hình hoa lá cách điệu được chạm nổi trên gỗ. Bước chân vào nội điện, khoảng không gian vốn đã được nới rộng bởi kiểu kiến trúc “trùng thiềm điệp ốc”  lại càng như rộng thêm bởi những dải liên ba tầng tầng lớp lớp nối tiếp nhau vào sâu trong chính điện. Cái tài, cái khéo của người xưa là đã tận dụng hết mọi chỗ trong ngôi điện để trang trí. Điện của vua nhưng không thấy vẻ trang nghiêm, lạnh lẽo mà tất cả đều sáng lên màu sắc lấp lánh của xà cừ, màu trắng mờ của ngà và xương, màu vàng dát lên các khuôn chữ… Phần lớn các ô chữ triện đều có đường nét to, khỏe, mạnh mẽ. Ngược lại, các ô hoa lá được khảm trai, khảm xà cừ với những đường nét mảnh dẻ, thanh tú. Những họa tiết này được đặt xen kẽ, bổ sung, hỗ trợ cho nhau chứ không phải là sự lặp lại đơn điệu, nhàm chán. Chúng tạo nên một cảm giác vui mắt, sống động trong cái không gian mang một màu nâu thâm u của toàn là gỗ. Người ta có thể tìm thấy nhiều ô chữ được viết, khảm, chạm, khắc lên khắp các mảng tường gỗ. Phần lớn đều là những bài thơ ca ngợi cảnh đẹp của núi sông, đất nước Việt Nam; là những lời hay ý đẹp được lựa chọn và đặt ở những vị trí trang trọng. Nghệ thuật trang trí theo mô-típ “nhất thi nhất họa” mang tính đặc trưng trong kiến trúc cung đình Huế với những đường nét mảnh mai nhưng sắc sảo của những ô chữ không hề bị mờ đi bên cạnh những ô khảm hoa lá. Ngược lại, hoa lá uốn lượn trong khung gỗ nhưng không gây cảm giác rườm rà, rối mắt. ở đây, nghệ thuật điêu khắc gỗ đã thể hiện ít nhiều tính chất và chức năng của hội họa. Sự tài hoa của các nghệ nhân xưa chính là ở chỗ biết áp dụng linh hoạt nhiều dạng kỹ thuật khác nhau, trong đó điêu khắc được kết hợp với khảm xương, ngà, xà cừ hoặc khảm gỗ (có màu sắc khác nhau), hoặc kết hợp kỹ thuật chạm với các chữ triện được thếp vàng. Giá trị nghệ thuật còn thể hiện ở chỗ điêu khắc không hề bị lạm dụng mà đây đó trong không gian nội thất còn được chạm những đồ án hình kỹ hà hay những đường chỉ nổi thật thanh thoát, đơn giản, bao quanh những khung đố bản hay tường gỗ trống rất tinh tế và cũng rất đúng chỗ.

Một số hiện vật trưng bày trong ngôi điện.

Điện Long An là bước đi đến đỉnh cao của kiến trúc Nguyễn, xứng đáng là ngôi điện điển hình nhất trong hệ thống kiến trúc cung đình Huế.  Bản thân Điện Long An là hiện vật lớn nhất mang đậm chất thơ, chất trí tuệ, là tinh hoa của các nghệ nhân. Và chỉ riêng ngôi điện này đã được coi là tác phẩm mỹ thuật tuyệt tác và đang được trưng bày cùng với các tác phẩm mỹ thuật khác của Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế.

TS. Phan Thanh Hải