Nam nữ bình quyền là một nguyên tắc xuyên suốt, luôn được Đảng quán triệt trong lãnh đạo công tác bình đẳng giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao địa vị phụ nữ, vì sự tiến bộ và phát triển xã hội, đã được thể hiện từ những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám. Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn tìm cách xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực này. Bài viết nhận diện rõ những luận điệu sai trái, đồng thời đề xuất giải pháp nhằm bảo vệ, nâng cao hiệu quả thực thi chính sách bình đẳng giới.

“Luận điệu” là danh từ dùng để chỉ những lý lẽ, ý kiến được đưa ra nhằm tác động đến nhận thức xã hội. Khi đứng trước động từ “xuyên tạc”, khái niệm này nhấn mạnh đến những lập luận sai trái do cá nhân, nhóm người hay tổ chức hợp pháp hoặc bất hợp pháp, trong nước hay ngoài nước dựng lên. Các luận điệu xuyên tạc của thế lực thù địch về công tác bình đẳng giới thực chất là sự bóp méo, vu khống, làm sai lệch sự thật với mục đích xấu: phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ giữa Đảng và Nhân dân, tiến tới chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tác động của các luận điệu xuyên tạc của thế lực thù địch về công tác bình đẳng giới của Đảng
Dư luận xã hội trong bảo vệ công tác bình đẳng giới của Đảng là một vấn đề mang tính “xã hội đặc biệt”, được thể hiện qua nhận thức, thái độ và hành động của các tầng lớp Nhân dân. Dư luận xã hội vừa là “công cụ” vừa là “phương tiện” quan trọng: một mặt, giúp các cấp lãnh đạo, quản lý nắm bắt thường xuyên luồng ý kiến của công chúng, phát hiện kịp thời những quan điểm sai trái, thông tin xuyên tạc của các thế lực thù địch; mặt khác, là phương tiện tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bình đẳng giới. Qua đó, phát huy sức mạnh tổng hợp của Nhân dân, biến những ý kiến đúng đắn, tích cực thành dư luận xã hội lành mạnh, đồng thuận, góp phần bảo vệ công tác bình đẳng giới của Đảng và làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.
Một là, các luận điệu xuyên tạc, sai sự thật của thế lực thù địch gây tác động tiêu cực đến nhận thức, thái độ và hành động của công chúng về công tác bình đẳng giới của Đảng. Sự đa dạng trong nhận thức, tư tưởng và quan điểm xã hội dễ dẫn đến tâm trạng phức tạp, thậm chí mâu thuẫn giữa các nhóm. Lợi dụng đặc điểm này, các thế lực thù địch sử dụng phương thức tuyên truyền “mưa dầm thấm lâu”, từng bước làm thay đổi nhận thức của một bộ phận công chúng, gieo rắc sự nghi ngờ, đẩy cao bức xúc cá nhân thành tâm lý đám đông chống đối. Hệ quả là một số người bị lôi kéo, tin theo, tham gia các hành vi gây rối, biểu tình, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, trật tự xã hội.
Hai là, các luận điệu xuyên tạc, sai sự thật của thế lực thù địch tác động tiêu cực đến cách tiếp cận thông tin của công chúng về công tác bình đẳng giới của Đảng. Chúng tìm mọi cách chiếm lĩnh không gian truyền thông, lập các trang, nhóm trên mạng xã hội để lôi kéo công chúng, lồng ghép thông tin xuyên tạc vào những vấn đề thực tiễn, trực diện tấn công vào công tác bình đẳng giới. Điển hình, khi nhân sự Bộ Chính trị khóa XIII có 01 đồng chí nữ (so với 03 đồng chí ở khóa XII), chúng lập tức xuyên tạc rằng Đảng không quan tâm đến sự tiến bộ của phụ nữ, coi đó là “bước thụt lùi” về bình đẳng giới. Đồng thời, chúng cổ xúy thành lập các hội, nhóm bất hợp pháp như “Hội dân oan”, “Hội phụ nữ nhân quyền”, kêu gọi phụ nữ tham gia, thậm chí vận động quốc tế trao “giải thưởng nhân quyền” cho những đối tượng vi phạm pháp luật trong nước nhằm bóp méo hình ảnh Việt Nam.
Âm mưu thâm độc của chúng là gây chia rẽ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân, khoét sâu mâu thuẫn xã hội, kích động xung đột giới, phá vỡ mục tiêu xây dựng gia đình Việt Nam bình đẳng, ấm no, hạnh phúc. Mục đích cuối cùng là bôi nhọ uy tín Việt Nam trên trường quốc tế, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong công tác bình đẳng giới. Nếu công chúng không tiếp cận được thông tin chính thống, để thông tin xuyên tạc dẫn dắt, nguy cơ bất ổn xã hội, chia rẽ và suy giảm niềm tin vào Đảng là điều khó tránh khỏi.
Nội dung và phương thức phản bác luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về công tác bình đẳng giới của Đảng
Bảo vệ công tác bình đẳng giới của Đảng là một quá trình tác động hợp quy luật, từ chưa biết đến biết, từ chưa rõ đến rõ, giúp công chúng xác định đúng bản chất vấn đề và có hành động ủng hộ, hình thành dư luận xã hội tích cực. Nội dung phản bác tập trung vào ba mục tiêu cơ bản: (1)Nhận thức đúng đắn: Giúp công chúng hiểu rõ bản chất công tác bình đẳng giới của Đảng, đồng thời nhận diện, vạch trần các quan điểm sai trái, thù địch. (2)Thái độ kiên quyết: Định hướng công chúng có thái độ phù hợp, biết phân tích, đánh giá và kiên quyết phản bác các luận điệu xuyên tạc của thế lực thù địch. (3)Hành vi hợp lý: Khuyến khích công chúng thể hiện sự đồng thuận với chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; đồng thời tích cực tham gia đấu tranh, phản đối quan điểm sai trái bằng lý lẽ khoa học, thực tiễn vững chắc.
Phương thức định hướng dư luận bằng luận cứ lý luận toàn diện, Chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã đưa ra những luận giải có tính nền tảng về vấn đề phụ nữ và bình đẳng giới, chỉ rõ nguyên nhân bất bình đẳng nam – nữ, đồng thời nêu điều kiện để giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình quyền. Trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước (1884), C. Mác và Ph. Ăng-ghen khẳng định: “Chế độ mẫu quyền bị lật đổ là sự thất bại lịch sử có tính chất toàn thế giới của phụ nữ”. Trong gia đình, phụ nữ bị giam hãm trong “chế độ nô lệ gia đình”, nặng nề gánh vác việc bếp núc, lam lũ, khổ cực, trong khi quyền lực thuộc về đàn ông, phản ánh sự nô dịch của nam giới đối với nữ giới.
Trong Tình cảnh giai cấp lao động ở Anh (1844), Ăng-ghen một lần nữa cho thấy sự khốn cùng của phụ nữ lao động: họ bị giới chủ buộc làm việc đến kiệt sức trong điều kiện khắc nghiệt, thậm chí “chết vì lao động quá sức”. Tỷ lệ phụ nữ chết vì bệnh tật do lao động nặng nhọc cao hơn nhiều so với nam công nhân (644/559 người).
Từ thực tiễn đó, Mác – Ăng-ghen khẳng định: giải phóng phụ nữ là điều kiện tất yếu để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, bởi “giai cấp vô sản sẽ không đạt được tự do hoàn toàn nếu không giành được tự do hoàn toàn cho phụ nữ”. Điều đó cũng có nghĩa: sự phát triển tự do của một người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, một lần nữa khẳng định tính tất yếu phải thực hiện bình đẳng nam nữ là xuất phát từ mục tiêu và tính chất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, đó là cuộc cách mạng toàn diện, triệt để nhằm thực hiện mục đích giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng loài người, trong đó có phụ nữ. Bởi vì, theo Người “Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội một nửa” . Sự nghiệp giải phóng phụ nữ cũng gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Và, đó không phải là một cuộc cách mạng đơn giản “Hôm nay anh nấu cơm, rửa bát, quét nhà, hôm sau em quét nhà, nấu cơm, rửa bát,… Đó là một cuộc cách mạng to và khó” vì trọng nam khinh nữ đã “ăn sâu trong đầu óc của mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội” nhưng nhất định sẽ thành công.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định: việc thực hiện bình đẳng nam nữ là tất yếu, xuất phát từ mục tiêu và bản chất của cách mạng xã hội chủ nghĩa – một cuộc cách mạng toàn diện, triệt để nhằm giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người, trong đó có phụ nữ. Người chỉ rõ: “Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng được một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội một nửa.”
Theo Hồ Chí Minh, sự nghiệp giải phóng phụ nữ gắn liền, thống nhất với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Đây không phải là cuộc cách mạng giản đơn trong gia đình như việc thay nhau “nấu cơm, rửa bát, quét nhà”, mà là một cuộc cách mạng lớn và khó khăn, bởi tư tưởng trọng nam khinh nữ đã ăn sâu trong nhận thức của nhiều người, nhiều gia đình, nhiều tầng lớp xã hội. Tuy nhiên, Người tin tưởng rằng cuộc cách mạng ấy nhất định sẽ thành công, bởi đó là quy luật phát triển tất yếu của xã hội mới.
Dựa trên quan điểm duy vật lịch sử trong giải quyết các vấn đề xã hội, phụ nữ được coi là chủ thể quan trọng, có khả năng nhận thức và cải tạo thế giới. Con người là điểm xuất phát, giải phóng con người là mục tiêu cao nhất. Vì vậy, lý luận về giải phóng con người nói chung và giải phóng phụ nữ nói riêng trong chủ nghĩa Mác mang đậm bản chất nhân văn, nhân đạo sâu sắc, đồng thời thể hiện tầm nhìn thời đại. Trước Mác, chưa có học thuyết nào bàn luận một cách toàn diện, sâu sắc và bao quát về vấn đề này như chủ nghĩa Mác.
Những luận cứ khoa học của C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng, phát triển sáng tạo, gắn với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tư tưởng của Người nhằm phát huy cao nhất vai trò của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình, đồng thời chứa đựng giá trị nhân văn, nhân đạo và tầm nhìn thời đại lớn lao. Đây không chỉ là lý tưởng cách mạng, mà còn thể hiện ý thức chính trị, lòng nhân ái, giá trị văn hóa và chủ nghĩa nhân đạo cộng sản sâu sắc của Hồ Chí Minh.
Phương thức định hướng dư luận bằng luận cứ chính trị. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về phụ nữ, bất bình đẳng nam – nữ và điều kiện giải phóng phụ nữ là kim chỉ nam để Đảng ta vận dụng sáng tạo trong thực thi công tác bình đẳng giới. Trải qua tiến trình cách mạng, Đảng đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo quan trọng nhằm đảm bảo công tác này được triển khai hiệu quả trong thực tiễn, như: Nghị quyết số 152-NQ/TW (1967); Chỉ thị số 44-CT/TW (1984); Nghị quyết 04-NQ/TW (1993); Nghị quyết số 11-NQ/TW (2007); cùng các Nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng.
Các văn bản trên thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ, được triển khai dựa trên bốn trụ cột lớn: (1)Khẳng định vị trí, vai trò của phụ nữ trong mọi mặt đời sống xã hội và gia đình. (2)Đề ra cương lĩnh, chủ trương, đường lối về công tác phụ nữ và bình đẳng giới phù hợp từng giai đoạn lịch sử. (3)Định hướng xây dựng chính sách, pháp luật nhằm thực hiện quyền bình đẳng giới trong đời sống xã hội và gia đình. (4)Tiến hành công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện bình đẳng giới trên phạm vi toàn quốc.
Ở bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, Đảng ta luôn nhấn mạnh: phụ nữ là chủ thể không thể thiếu trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình. Giải phóng phụ nữ đồng nghĩa với giải phóng lực lượng lao động xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, tạo động lực tổng thể cho sự thịnh vượng của quốc gia. Đây là cơ sở chính trị vững chắc, nền tảng để thực hiện bình đẳng giới trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội và gia đình.
Phương thức định hướng dư luận bằng luận cứ pháp lý. Địa vị pháp lý của phụ nữ là thước đo quan trọng phản ánh trình độ văn minh của nhân loại. Chính vì vậy, vấn đề bình đẳng giới đã được thể chế hóa trong hệ thống chính sách, pháp luật, gồm hai nhóm cơ bản: (1)Văn bản pháp lý quốc tế – thể hiện sự cam kết của Việt Nam với các tổ chức quốc tế và cộng đồng quốc gia trên thế giới về bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ theo các chuẩn mực quốc tế. (2)Văn bản pháp lý quốc gia – bao gồm Hiến pháp, luật và các văn bản quy phạm pháp luật, quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ và cơ chế bảo đảm thực thi bình đẳng giới trong đời sống xã hội và gia đình.
Việc thực hiện đầy đủ các văn bản pháp lý quốc tế và quốc gia không chỉ là cam kết pháp lý của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế, mà còn tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo đảm quyền bình đẳng giữa nam và nữ trên mọi lĩnh vực. Đồng thời, điều đó phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước; khẳng định quyết tâm chính trị trong xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ; hướng tới thực hiện bình đẳng giới thực chất trong đời sống xã hội và gia đình, qua đó góp phần nâng cao vị thế và vai trò của phụ nữ Việt Nam.
Phương thức định hướng dư luận bằng luận cứ thực tiễn. Trong những năm qua, khung pháp lý và thể chế của Việt Nam không ngừng được hoàn thiện nhằm thúc đẩy bình đẳng giới, trao quyền cho phụ nữ và tăng cường sự tham gia của họ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Chỉ tính từ năm 2015 đến nay, trong tổng số 111 văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, đã có 40 văn bản đáp ứng yêu cầu về lồng ghép giới. Điều này cho thấy nỗ lực nghiêm túc và hiệu quả của Việt Nam trong việc đưa bình đẳng giới trở thành một tiêu chí xuyên suốt trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật, tạo nền tảng vững chắc cho việc bảo vệ và nâng cao vị thế của phụ nữ trong xã hội.
Củng cố bộ máy thúc đẩy bình đẳng giới. Trong hơn mười năm qua, việc kiện toàn cơ cấu tổ chức về bình đẳng giới đã mang lại những thay đổi quan trọng. Từ trung ương đến địa phương, bộ máy chuyên trách được xây dựng và vận hành đã tạo nền tảng vững chắc cho việc triển khai Luật Bình đẳng giới và thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới. Hiện nay, tất cả các bộ, cơ quan ngang bộ và chính quyền địa phương đều đã ban hành, triển khai kế hoạch hành động về bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ, với nhiều hoạt động thiết thực, hiệu quả, góp phần nâng cao vai trò và vị thế của phụ nữ trong đời sống xã hội.
Thành tựu và định hướng công tác bình đẳng giới giai đoạn mới. Việt Nam tiếp tục thể hiện quyết tâm cao trong thực hiện công tác bình đẳng giới với việc xây dựng và phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 – 2030. Đáng chú ý, Chiến lược lần đầu tiên đề cập đến nhóm người đồng tính, song tính và chuyển giới (LGBT), cho thấy bước tiến quan trọng trong việc mở rộng phạm vi đối tượng thụ hưởng chính sách.
Trong thực tiễn, phụ nữ Việt Nam tham gia lực lượng lao động và có khả năng tiếp cận cơ hội kinh tế ở mức tương đối cao. Đến nay, 14/22 chỉ tiêu trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới đã đạt được; nhiều cải cách quan trọng được ban hành; khung thống kê giới quốc gia đã được thông qua năm 2019. Bình đẳng giới trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý cũng có những bước tiến đáng kể: trong nhiệm kỳ 2016 – 2020, Việt Nam có nữ Chủ tịch Quốc hội, 3/19 Ủy viên Bộ Chính trị là nữ, và có nữ đại biểu Quốc hội trực tiếp đề xuất dự án luật.
Đặc biệt, năm 2021, Việt Nam được xếp hạng 71/193 quốc gia về Chỉ số phụ nữ tham gia Nghị viện quốc gia của Liên minh Liên nghị viện thế giới (IPU). Những thành tựu này là minh chứng cho nỗ lực không ngừng của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội; đồng thời tạo động lực, tiền đề quan trọng để Việt Nam tiếp tục ứng phó với những thách thức mới, bảo đảm thực hiện bình đẳng giới thực chất trong giai đoạn tới.
Phương thức định hướng dư luận từ chính năng lực của phụ nữ. Bản thân người phụ nữ, do những đặc điểm tâm lý truyền thống như tính cam chịu, nhẫn nhục, sự tự ti hay thiếu niềm tin vào khả năng của mình, cùng với những khó khăn gắn liền với trách nhiệm gia đình và con cái, thường gặp nhiều trở ngại trong quá trình phát triển. Chính vì vậy, giải phóng phụ nữ trước hết phải là sự giải phóng từ nhận thức và hành động của chính họ.
Phụ nữ không nên ỷ lại vào Đảng hay Nhà nước, mà cần tự cường, chủ động đấu tranh để khẳng định mình. Trên cơ sở được trao quyền, phụ nữ phải nỗ lực tiếp cận, kiểm soát và sử dụng hiệu quả các nguồn lực nhằm phát triển, nâng cao vị thế trong xã hội. Đồng thời, họ cần thực hiện tốt các vai trò gắn với từng vị trí xã hội cụ thể, vừa khẳng định năng lực cá nhân, vừa đóng góp cho cộng đồng và quốc gia.
Với sự quyết tâm đó, chúng ta có cơ sở để tin tưởng rằng: “Phụ nữ sẽ học tập nhanh chóng và đuổi kịp nam giới”, trở thành lực lượng quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ xã hội và phát triển đất nước.

Một số tồn tại và những nguyên tắc cần quán triệt trong phản bác luận điệu xuyên tạc về công tác bình đẳng giới của Đảng
Một trong những rào cản lớn đối với việc thúc đẩy bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay là niềm tin phổ biến vào “thiên chức” của phụ nữ trong sinh con, chăm sóc gia đình và đảm nhận công việc nội trợ. Quan niệm này vô hình trung góp phần “củng cố” khoảng cách giới trong đời sống xã hội và gia đình, hạn chế khả năng phụ nữ tiếp cận, kiểm soát và sử dụng các nguồn lực, từ đó làm gia tăng bất bình đẳng giới.
Hệ quả thể hiện rõ qua nhiều khía cạnh: phụ nữ đã kết hôn từng bị bạo lực ít nhất một lần trong đời, nhưng 90,4% không tìm kiếm sự hỗ trợ; phụ nữ chiếm đa số trong các công việc dễ bị tổn thương; khoảng cách tiền lương giữa lao động nam và nữ trong khu vực chính thức vẫn ở mức 13,7%; định kiến về khả năng lãnh đạo của phụ nữ vẫn tồn tại, dẫn đến việc họ bị loại trừ trong quá trình bầu cử và tham gia lãnh đạo.
Những thực trạng này không chỉ tạo môi trường thuận lợi cho các thế lực thù địch xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong công tác bình đẳng giới, mà còn đặt ra yêu cầu cấp thiết phải quán triệt nguyên tắc đấu tranh phản bác trên cả ba bình diện: nhận thức – thái độ – hành động, kết hợp giữa củng cố pháp lý, tăng cường truyền thông chính thống và phát huy vai trò chủ động của chính phụ nữ trong công cuộc đấu tranh này.
Nguyên tắc trong đấu tranh phản bác luận điệu xuyên tạc về công tác bình đẳng giới của Đảng. Qua nghiên cứu các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, có thể rút ra một số kết luận mang tính nguyên tắc trong đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc của thế lực thù địch:
Một là, phải luôn nhận thức sâu sắc và toàn diện chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực thi công tác bình đẳng giới. Trên cơ sở đó, cần vận dụng linh hoạt, phát triển sáng tạo và mở rộng nội dung thực thi, gắn với điều kiện lịch sử – xã hội cụ thể của từng giai đoạn, nhằm bảo đảm tính thực chất và hiệu quả của công tác bình đẳng giới.
Hai là, luôn giữ thái độ kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực thi công tác bình đẳng giới ở Việt Nam. Kiên định lập trường chính trị đồng nghĩa với việc bác bỏ mọi quan điểm sai trái, xuyên tạc; đồng thời củng cố niềm tin xã hội vào đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp thúc đẩy bình đẳng giới.
Ba là, trên cơ sở nhận thức đúng đắn, thái độ vững vàng và kiên định, cần xây dựng những hành động thiết thực, hiệu quả. Đồng thời, phải rút ra bài học từ những hạn chế, những nhận thức chưa đầy đủ về chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Quán triệt tinh thần khoa học, dân chủ, kết hợp với thái độ kiên quyết trong phản bác các luận điệu xuyên tạc của thế lực thù địch, qua đó bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và giữ vững thành tựu của công tác bình đẳng giới ở Việt Nam.
Công tác bình đẳng giới là một chủ trương lớn, nhất quán và xuyên suốt trong đường lối lãnh đạo của Đảng, thể hiện bản chất tiến bộ, nhân văn của chế độ xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật quan trọng, qua đó đạt được những thành tựu to lớn trong việc nâng cao vị thế, vai trò của phụ nữ trong xã hội.
Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn luôn tìm cách xuyên tạc, phủ nhận nỗ lực và thành quả đó, hòng chia rẽ Đảng với Nhân dân, làm suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, việc đấu tranh, phản bác các luận điệu sai trái về công tác bình đẳng giới cần được tiến hành thường xuyên, kiên quyết và hiệu quả, dựa trên cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn vững chắc.
Đồng thời, cần phát huy vai trò chủ động của phụ nữ, sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, biến bình đẳng giới trở thành động lực thúc đẩy phát triển bền vững. Đây không chỉ là yêu cầu khách quan của tiến trình cách mạng, mà còn là minh chứng sống động cho bản chất ưu việt của chế độ ta, góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững trong giai đoạn mới.
ThS. Nguyễn Thị Thùy Nhung/Học viện Chính trị khu vực II, thành phố Hồ Chí Minh.
Tài liệu tham khảo
1.C. Mác và Ph. Ăng-ghen, 2002, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.21, tr.93, 104.
2.C. Mác và Ph. Ăng-ghen, 1993, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tập 23, tr.373.
3.C. Mác và Ph. Ăng-ghen, 2002, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.23, tr.428, 373.
4.Hồ Chí Minh, 2000, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.3, tr. 523
5.Hồ Chí Minh, 1970, Hồ Chí Minh với vấn đề giải phóng phụ nữ, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, tr.31
6.Hồ Chí Minh, 2011, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.7, tr.342
7.Hồ Chí Minh, 2011, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.12, tr. 640
8.V.I. Lê-nin, 2005, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.42, tr.464
9.V.I. Lê-nin, 1980, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Hà Nội, t.40, tr.183
10.V.I.Lênin, 2006, Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, t.40, tr. 221.
11.V.I.Lênin, 2005, Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, t.39, tr. 232
12 V.I.Lê-nin, 2005, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.40, tr.182 – 183
13.Đại Thắng – Quang Thành, 2023, Không thể phủ mờ những nỗ lực trong bảo đảm bình đẳng giới ở Việt Nam, cand.vn, ngày 06-3-2023
14.Cơ quan Liên Hợp Quốc về bình đẳng giới và Trao quyền cho phụ nữ (UN Women), 2021, Tổng quan về bình đẳng giới ở Việt Nam (CGEP), tr.44-46, tr.56, tr.54-55, tr.19-22, tr.39, tr.24-26.
15.Nguyễn Như Ý, 1998, Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb.Văn hóa-Thông tin, tr.1059, tr.1879.