Căn cứ quy định tại Điều 56 Luật Di sản văn hóa năm 2001 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009), ngày 22/11/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1243/QĐ-TTg về việc thành lập và tổ chức, hoạt động của Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia – cơ quan tư vấn của Thủ tướng Chính phủ về những vấn đề quan trọng liên quan đến việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Hiện nay, Hội đồng gồm 27 thành viên, là những chuyên gia trong lĩnh vực văn hóa, di sản, do Thủ tướng chính phủ ra quyết định bổ nhiệm.
Thực hiện Quy chế Tổ chức và hoạt động của Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia (theo Quyết định số 1522/QĐ-TTg ngày 07/10/2020 của Thủ tướng Chính phủ), căn cứ nhiệm vụ và quyền hạn quy định tại Điều 2 của Quy chế, Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia (Nhiệm kỳ 2020 – 2024) đã xây dựng kế hoạch công tác hằng năm, tổ chức 17 phiên họp toàn thể Hội đồng và 21 phiên họp Thường trực Hội đồng để đóng góp ý kiến thẩm định các hồ sơ về di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh và di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu của Việt Nam trình UNESCO công nhận là Di sản Thế giới và Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại hoặc cần bảo vệ khẩn cấp. Hội đồng cũng đã tiến hành nghiên cứu, khảo sát thực tiễn ở một số địa phương; làm việc với Ủy ban nhân dân các tỉnh về công tác bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa; phối hợp tổ chức hội thảo khoa học về văn hóa và di sản văn hóa. Nhiều thành viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia đã trực tiếp tham gia vào việc xây dựng hồ sơ trình UNESCO; tham gia các cuộc hội thảo khoa học trong nước và quốc tế về những vấn đề liên quan đến di sản văn hóa.
Thực hiện quyền hạn quy định tại Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia, trong nhiệm kỳ 2020 – 2024, Hội đồng đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hoàn thành nhiệm vụ do Thủ tướng Chính phủ giao, đồng thời chủ động đề xuất tham mưu những vấn đề lớn có ảnh hưởng đến hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa của đất nước. Dưới đây là một số hoạt động và đóng góp nổi bật của Hội đồng.
Theo số liệu thống kê của Cục Di sản văn hoá, tính đến hết năm 2023 trên cả nước đã xếp hạng trên 10.000 di tích cấp tỉnh, thành phố, 3.621 di tích quốc gia và 130 di tích quốc gia đặc biệt (trên tổng số khoảng 40.000 di tích đã được kiểm kê). Việt Nam cũng có khoảng 70.000 di sản văn hóa phi vật thể được kiểm kê, trong đó có 534 di sản được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Các di sản của Việt Nam được UNESCO công nhận/ghi danh, bao gồm: 09 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới; 15 di sản văn hóa phi vật thể (trong đó 13 di sản văn hóa phi vật thể trong Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và 02 di sản văn hóa phi vật thể trong Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp); 10 di sản tư liệu (03 di sản tư liệu thế giới, 07 di sản tư liệu khu vực châu Á – Thái Bình Dương); có 294 hiện vật, nhóm hiện vật được Thủ tướng Chính phủ công nhận là bảo vật quốc gia, trong đó 168 hiện vật, nhóm hiện vật đang được lưu giữ, bảo quản, trưng bày và phát huy giá trị tại các bảo tàng công lập và ngoài công lập trên phạm vi toàn quốc. Với tư cách là Cơ quan tư vấn cho Thủ tướng chính phủ các vấn đề về văn hóa, di sản của quốc gia, Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia đã có đóng góp tích cực và nổi bật đối với công tác bảo vệ và phát huy giá trị kho tàng di sản văn hóa đồ sộ, phong phú của Việt Nam.
Một số hình ảnh về phiên họp của Hội đồng DSVHQG tháng 11/2024
Hoạt động của Hội đồng trong nhiệm kỳ 2020-2024
Tổ chức các phiên họp toàn thể hội đồng và Thường trực Hội đồng để đóng góp ý kiến thẩm định hồ sơ về di tích, danh lam thắng cảnh và di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu của Việt Nam trình UNESCO công nhận là Di sản Thế giới, Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại hoặc cần bảo vệ khẩn cấp.
Hội đồng đã Thẩm định Hồ sơ “Vịnh Hạ Long – Quần đảo Cát Bà” do UBND thành phố Hải Phòng chủ trì (được sự thống nhất của UBND tỉnh Quảng Ninh) trình UNESCO công nhận là Di sản Thế giới năm 2024, có bổ sung Tiêu chí ix về đa dạng sinh học.
Định hướng, làm việc với các chuyên gia trong nước, quốc tế hỗ trợ khảo sát, nghiên cứu, hoàn thiện Hồ sơ “Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử – Vĩnh Nghiêm – Côn Sơn, Kiếp Bạc” do UBND tỉnh Quảng Ninh chủ trì (được sự thống nhất của UBND tỉnh Hải Dương và Bắc Giang) trình UNESCO công nhận là Di sản Thế giới theo Tiêu chí hỗn hợp (Mix) với giá trị địa chất địa mạo, thẩm mỹ và văn hóa.
Hội đồng còn chủ động có ý kiến tham mưu với Thủ tướng Chính phủ về các hồ sơ Di sản thế giới mở rộng trình UNESCO: Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng với di sản Hin Nậm Nô của Lào; về đề nghị của Campuchia phối hợp xây dựng hồ sơ Di sản văn hóa Óc Eo,…
Về di sản văn hóa phi vật thể:
Thẩm định Hồ sơ “Nghệ thuật Xòe Thái” (đã được UNESCO ghi danh trong Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, năm 2021);
Thẩm định Hồ sơ “Nghệ thuật làm gốm truyền thống của người Chăm” (đã được UNESCO ghi danh trong Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, năm 2022);
Thẩm định Hồ sơ “Nghệ thuật Chèo”, “Mo Mường” “Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ” đã trình UNESCO ghi danh, đang được các tổ chức chuyên môn của UNESCO thẩm định.
Tổ chức các phiên họp toàn thể Hội đồng và Thường trực Hội đồng để đóng góp ý kiến thẩm định hồ sơ di tích đề nghị xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt và hồ sơ đề nghị công nhận bảo vật quốc gia
Về di tích đề nghị xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt:
Hội đồng đã thẩm định Hồ sơ di tích đề nghị xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (đợt 11), năm 2020, gồm 07 di tích thuộc các loại hình: Di tích lịch sử; di tích kiến trúc nghệ thuật; di tích lịch sử lưu niệm danh nhân (Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu, Nguyễn Xí,…); danh lam thắng cảnh.
Thẩm định Hồ sơ di tích đề nghị xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (đợt 12 và 13), năm 2022, gồm 09 di tích thuộc các loại hình: Di tích lịch sử; di tích kiến trúc nghệ thuật; di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật; di tích khảo cổ; di tích lịch sử cách mạng; di tích lịch sử lưu niệm danh nhân (Chủ tịch Hồ Chí Minh).
Thẩm định Hồ sơ di tích đề nghị xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (đợt 14), năm 2023, gồm 02 di tích thuộc các loại hình: Di tích lịch sử; di tích kiến trúc nghệ thuật.
Thẩm định Hồ sơ di tích đề nghị xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (đợt 15), năm 2024, gồm 03 di tích thuộc các loại hình: Di tích khảo cổ; di tích lịch sử.
Thẩm định Hồ sơ di tích đề nghị xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (đợt 16), năm 2024, gồm 06 di tích thuộc các loại hình: Di tích khảo cổ; di tích lịch sử, di tích kiến trúc nghệ thuật.
Thẩm định Hồ sơ di tích đề nghị xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (đợt 17), năm 2024, gồm 04 di tích thuộc các loại hình: Di tích lịch sử, di tích kiến trúc nghệ thuật.
Về hiện vật đề nghị công nhận bảo vật quốc gia:
Thẩm định Hồ sơ hiện vật đề nghị công nhận Bảo vật quốc gia (đợt 8 và 9), năm 2020, gồm 53 hiện vật, nhóm hiện vật. Hội đồng thẩm định được 51 hiện vật, nhóm hiện vật thuộc Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Champa, Văn hóa Óc Eo; các bảo vật thời Lý, thời Lê, thời Tây Sơn, thời Nguyễn.
Thẩm định Hồ sơ hiện vật đề nghị công nhận Bảo vật quốc gia (đợt 10), năm 2021, gồm 23 hiện vật và nhóm hiện vật. Hội đồng thẩm định được 23 hiện vật, nhóm hiện vật thuộc Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Champa, Văn hóa Óc Eo, thời Lý, thời Trần, thời Lê Trung hưng, thời Nguyễn và 01 tác phẩm tiêu biểu cho mỹ thuật đương đại Việt Nam của họa sĩ Bùi Trang Chước.
Thẩm định Hồ sơ hiện vật đề nghị công nhận Bảo vật quốc gia (đợt 11), năm 2023, gồm 27 hiện vật, nhóm hiện vật. Hội đồng thẩm định được 27 hiện vật, nhóm hiện vật thuộc Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Champa, Văn hóa Óc Eo; các bảo vật thời Lý, thời Lê, thời Mạc, thời Lê Trung Hưng, thời Tây Sơn, thời Nguyễn và 02 hiện vật lịch sử cách mạng: Tượng chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh và Xe tăng T59.
Thẩm định Hồ sơ hiện vật đề nghị công nhận Bảo vật quốc gia (đợt 12), năm 2024, gồm 29 hiện vật, nhóm hiện vật. Hội đồng thẩm định được 29 hiện vật, nhóm hiện vật thuộc Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Champa, Văn hóa Óc Eo; nhóm hiện vật từ thế kỷ I-X, thời Đinh, thời Lý, thời Trần, thời Lê sơ, thời Mạc, thời Lê Trung hưng, thời Nguyễn; hiện vật trong trận “Điện Biên Phủ trên không” và 01 hiện vật lịch sử cách mạng: Khuôn in tín phiếu.
Thẩm định Hồ sơ hiện vật đề nghị công nhận Bảo vật quốc gia (đợt 13), năm 2024, gồm 34 hiện vật, nhóm hiện vật. Hội đồng thẩm định được 33 hiện vật, nhóm hiện vật thuộc Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Champa, Văn hóa Óc Eo; nhóm hiện vật từ thế kỷ I-X, thời Đinh, thời Lý, thời Trần, thời Lê sơ, thời Mạc, thời Lê Trung hưng, thời Nguyễn; hiện vật trong trận “Điện Biên Phủ trên không” và 01 hiện vật lịch sử cách mạng: Khuôn in tín phiếu.
Tổ chức hội thảo khoa học.
Trong nhiệm kỳ 2020-2024, Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia đã phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức 02 hội thảo khoa học:
Hội thảo “Xây dựng bộ công cụ giám sát việc thực hiện quản lý Nhà nước về di sản văn hóa”. Đây là Hội thảo đầu tiên hướng về hoạt động quản lý Nhà nước trong giai đoạn chuyển đổi số hiện nay, những khó khăn, thách thức và giải pháp về các nguồn lực để triển khai hiệu quả trên thực tiễn và môi trường số. Hội đồng cũng đề ra định hướng cần thiết phải có sự thống nhất trong công tác quản lý, đề xuất xây dựng bộ công cụ giám sát việc thực hiện quản lý Nhà nước về di sản văn hóa, giúp các cơ quan có thẩm quyền đánh giá hiệu quả và hậu kiểm công tác quản lý nhà nước hiện nay bằng các tiêu chí cụ thể trên phạm vi toàn quốc.
Hội thảo “Bảo tồn và phát huy giá trị các không gian văn hoá và hệ tri thức biến Việt Nam”. Thông qua các bài tham luận tại Hội thảo nhằm làm rõ: Quá trình hình thành, phát triển, đặc trưng của các không gian văn hóa biển trên các vùng biển đảo Việt Nam; Sự phân bố, thực trạng và các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể (đặc biệt là hệ tri thức văn hóa biển) của các không gian văn hóa biển tiêu biểu; Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa biển đảo Việt Nam. Kết quả Hội thảo khoa học nhằm chủ động, tham gia tích cực vào công tác tư vấn chính sách với Đảng, Nhà nước hướng đến việc thực hiện các mục tiêu mà Nghị quyết 36 của BCHTW đã đề ra về Chiến lược biển Việt Nam; thiết thực phục vụ công tác “Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030 và tầm nhìn đến năm 2050”, góp phần xây dựng “Quy hoạch không gian kinh tế biển quốc gia”.
Các thành viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia đã tham gia nhiều hội nghị, hội thảo tư vấn về xây dựng hồ sơ di sản, hồ sơ danh nhân văn hóa: Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Xuân Hương, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, Lê Quý Đôn; tham gia các hội thảo khoa học quốc gia và quốc tế về: Bảo tồn di sản văn hóa, phát triển công nghiệp văn hóa, xây dựng thị trường văn hóa, chuyển đổi số trong văn hóa, hội thảo về bảo vệ chủ quyền biển đảo, biên giới quốc gia,…
Tổ chức đi khảo sát và làm việc với một số Ủy ban nhân dân tỉnh về công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Hội đồng đã tiến hành khảo sát và làm việc với UBND tỉnh/thành phố và các cơ quan chức năng của tỉnh/thành phố về việc bảo vệ và phát huy đối với Di sản phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, di tích quốc gia đặc biệt và bảo vật quốc gia tại các tỉnh Quảng Ninh, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk (năm 2022); Quảng Bình, Quảng Trị (năm 2023); Ninh Thuận, Phú Yên (năm 2024). Sau các chuyến đi khảo sát, Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia đều kịp thời có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ và gửi tới UBND tỉnh/thành phố và các tổ chức có liên quan về di sản văn hóa của địa phương.
Những ý kiến đóng góp và kiến nghị của Hội đồng đã được tổng họp thành văn bản trình Thủ tướng Chính phủ và gửi tới các địa phương nơi Hội đồng đến khảo sát và làm việc.
Các hoạt động khác liên quan đến công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Các Thành viên Hội đồng tham gia thẩm định các nhiệm vụ quy hoạch, đề án quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích gắng với phát triển bền vững, du lịch…của các di tích quốc gia đặc biệt trước khi trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Tham gia, góp ý hoàn thiện dự thảo Luật Di sản văn hoá năm 2024 đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực vào tháng 7/2025. Đây là công cụ pháp lý quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về di sản văn hoá.
Từ năm 2021 đến nay, sau khi đề án xây dựng Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) được Quốc hội thông qua, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tiến hành xây dựng dự thảo nội dung Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) và Nghị định quy định biện pháp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá phi vật thể trong các Danh sách của UNESCO và Danh mục Di sản văn hoá phi vật thể quốc gia. Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia đã tổ chức nhiều phiên họp (bao gồm các phiên họp toàn thể Hội đồng, và các cuộc họp, làm việc chuyên gia) tham gia tư vấn, đề xuất ý tưởng, cấu trúc, nội dung và trực tiếp biên soạn, bổ sung, chỉnh sửa Luật Di sản văn hóa và Nghị định. Các hoạt động đó đạt được nhiều kết quả tích cực. Hiện nay, Nghị định đã được Chính phủ ban hành số 39/2024/NĐ-CP ngày 16/4/2024 và dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) đang hoàn thiện những bước cuối cùng để trình Quốc hội xem xét, thông qua vào tháng 11 năm 2024.Trong mọi hoạt động của Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia, lãnh đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Cục Di sản văn hóa đã phối hợp rất chặt chẽ, tạo điều kiện thuận lợi để Hội đồng hoàn thành nhiệm vụ. Thời gian qua, Hội đồng cũng nhận được sự phối hợp, hỗ trợ tích cực của Văn phòng Chính phủ, của Ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam.Các thành viên Hội đồng làm việc với tinh thần khoa học và trách nhiệm cao, nghiêm túc, thẳng thắn và rất tâm huyết; tham gia tích cực vào các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc. Mặc dù các thành viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia, Thường trực Hội đồng và Văn phòng Hội đồng làm việc theo chế độ kiêm nhiệm, nhưng đều hết sức cố gắng, tích cực tham gia các hoạt động của Hội đồng, thực hiện có trách nhiệm những công việc được phân công. Trong nhiệm kỳ 2020-2024, 03 Thành viên Hội đồng trúng cử Ủy ban Di sản thế giới (WHC – UNESCO) nhiệm kỳ 2023-2027; 01 thành viên được bầu vào Ủy ban Tư vấn hồ sơ của UNESCO về di sản tư liệu và tái đắc cử vị trí Phó Chủ tịch Ủy ban Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á – Thái Bình Dương nhiệm kỳ 2024-2026.Hội đồng làm việc theo nguyên tắc tập thể, dân chủ và theo phương thức thảo luận, góp ý kiến và biểu quyết để quyết định những vấn đề đưa ra thảo luận. Các cuộc họp của Hội đồng được tổ chức nghiêm túc, khoa học. Mỗi hồ sơ di sản trước khi đưa ra Hội đồng đều được phân công người phản biện và cung cấp tài liệu để nghiên cứu, thẩm dịnh. Các thành viên khác của Hội đồng cùng đều có trách nhiệm đọc, viết ý kiến nhận xét. Quy trình thẩm định được tiến hành đánh giá như một đề tài nghiên cứu khoa học, và trực tiếp đóng góp ý kiến thẩm định tại phiên họp toàn thể Hội đồng. Trên cơ sở ý kiến của các thành viên Hội đồng, Thường trực Hội đồng tổng hợp, đề nghị cơ quan chuẩn bị hồ sơ chỉnh sửa, bổ sung hoàn thiện, gửi lại hồ sơ đã được hoàn thiện để Thường trực Hội đồng xem lại và báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.Kết quả nổi bật trong nhiệm kỳ 2020 – 2024 là Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia đã hoàn thành xuất sắc việc thẩm định và trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định xếp hạng 21 di tích quốc gia đặc biệt (trong 05 đợt); 130 hiện vật và nhóm hiện vật đề nghị công nhận bảo vật quốc gia (trong 05 đợt); 05 di sản văn hóa phi vật thể, trong đó 02 di sản đã được UNESCO công nhận (“Nghệ thuật Xòe Thái”, “Nghệ thuật làm gốm truyền thống của người Chăm”). Các hồ sơ “Nghệ thuật Chèo”, “Mo mường”, “Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ” đang được UNESCO xem xét; 02 di tích và danh lam thắng cảnh đề nghị UNESCO công nhận là Di sản Thế giới, trong đó “Vịnh Hạ Long – Quần đảo Cát Bà” đã được UNESCO công nhận; hồ sơ “Quần thể danh thắng Yên Tử – Vĩnh Nghiêm – Côn Sơn, Kiếp Bạc” đã được gửi đến UNESCO đúng hạn, nhận được nhiều đánh giá tích cực và sẽ được UNESCO xem xét vào năm 2025.
Bên cạnh việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng quy định tại Điều 2 Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Hội đồng nhiệm kỳ này đã chủ động tham gia ý kiến đối với những vấn đề quan trọng, tăng cường hoạt động tư vấn, đề xuất cơ chế, chính sách về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa: về chủ trương kết nối xây dựng hồ sơ xuyên biên giới giữa Vườn quốc gia Hin Nậm Nô của Lào với Di sản Thiên nhiên Thế giới Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng của Việt Nam trình UNESCO công nhận là Di sản Thế giới; có ý kiến tư vấn với Ban Đối ngoại Trung ương; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Bộ Ngoại giao về đề nghị của Campuchia hợp tác nghiên cứu, xây dựng hồ sơ khu di tích khảo cổ Óc Eo – Ba Thê (tỉnh An Giang) với Angkor Borei và các di tích khác của Campuchia.
Các thành viên của Hội đồng cũng đã tham gia tư vấn, thẩm định hồ sơ di tích quốc gia đặc biệt thương cảng Vân Đồn, Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô, di tích đình Trà Cổ ở vùng biên giới, biển đảo Đông Bắc; tham gia tư vấn xây dựng hồ sơ Địa đạo Củ Chi; hồ sơ Đường Hồ Chí Minh trên biển; đề án xây dựng Bảo tàng Trường Sa, Bảo tàng văn hóa biển ở huyện đảo Lý Sơn; tham gia nghiên cứu, đề xuất giá trị lịch sử, văn hóa về kênh Vĩnh Tế (An Giang); khảo sát, nghiên cứu, làm rõ giá trị các di chỉ khảo cổ học, di tích lịch sử – văn hóa trên các đảo Phú Quốc – Thổ Chu thuộc vùng biển Tây Nam của Tổ quốc.
Một số kiến nghị
Từ kinh nghiệm thực tiễn hoạt động của Hội đồng trong nhiệm kỳ 2020 – 2024, Hội đồng xin nêu một số kiến nghị:
Hiện nay, những quy định về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, cũng như về tổ chức và nguyên tắc hoạt động của Hội đồng tại Quy chế này đã đầy đủ, chặt chẽ và phù hợp với tư cách là một hội đồng tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ về những vấn đề quan trọng liên quan đến việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Vì vậy, Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định cho tiếp tục thực hiện Quy chế này trong nhiệm kỳ 2025 – 2029 của Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia.
Thực hiện mục tiêu quan trọng có tính tổng quát của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Khóa XII về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” và Kế hoạch 26/NQ-CP ngày 05/03/2020 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện Nghị quyết 36 của BCH TW để “Giữ gìn giá trị, phát huy truyền thống lịch sử, bản sắc văn hóa biển đi đôi với việc xây dựng xã hội gắn kết thân thiện với biển”, và để “phát triển mô hình tăng trưởng xanh, bảo vệ môi trường, phát huy văn minh sinh thái biển”, Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia nhận thấy cần được quan tâm hơn nữa trong nhận thức, nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị của Văn hóa biển đảo Việt Nam. Di sản văn hóa biển phải trở thành một nguồn lực nội sinh quan trọng cho các kế hoạch, chiến lược phát triển bền vững, gắn phát triển kinh tế biển với bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa biển đảo, với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông và với các hải đảo, trong đó đặc biệt là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Qua cuộc hội thảo khoa học về “Bảo tồn, phát huy giá trị các không gian văn hoá và hệ tri thức biến Việt Nam”, Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia đã có Báo cáo đề xuất, tư vấn với Thủ tướng chính phủ chủ trương bảo tồn các không gian văn hóa biển và hệ tri thức biển Việt Nam, đồng thời kiến nghị một số giải pháp phát huy giá trị văn hóa biển (Báo cáo tư vấn số 9/BC-HDDSVHQG ngày 20/06/2024).
Hiện nay, Chính phủ đã có quy hoạch 16 Khu bảo tồn biển; UNESCO cũng đã công nhận 11 Khu dự trữ sinh quyển của Việt Nam. Việc quy hoạch các không gian biển với các vùng bảo vệ – bảo tồn, vùng đệm và vùng phát triển kinh tế – xã hội nhằm hướng đến mục tiêu phát triển xanh, bền vững kinh tế biển. Cơ sở của tư duy phát triển này là phát huy tối đa lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, bản sắc văn hóa, tính đa dạng của hệ sinh thái, bảo đảm tính liên kết vùng giữa địa phương có biển và không có biển, bảo vệ các nguồn gen quý, đặc hữu của hệ sinh thái biển Việt Nam. Tuy nhiên, đến nay Việt Nam chưa có một Khu bảo tồn văn hóa biển nào được quan tâm, đề xuất quy hoạch và có kế hoạch bảo tồn; Bảo tồn các không gian văn hóa biển: gồm 4 loại hình/không gian văn hóa biển trọng tâm, có độ trù mật cao về di sản văn hóa; Cùng với việc bảo tồn các Không gian văn hóa biển, cần đặc biệt coi trọng việc bảo tồn Hệ tri thức văn hóa biển Việt Nam. Đây chính là di sản văn hóa độc đáo của văn hóa dân tộc, của văn minh sinh thái biển Việt Nam. Có thể coi đây là bước đột phá trong bảo tồn các giá trị văn hóa tiêu biểu của Việt Nam. Để thực hiện nhiệm vụ này, cần lập kế hoạch, triển khai sớm Chương trình điều tra tổng hợp, nghiên cứu, bảo tồn, phát huy giá trị Hệ tri thức văn hóa biển Việt Nam.
Để thực hiện các nhiệm vụ trên đây, cần tiếp tục có kế hoạch khảo sát thực địa, nghiên cứu chuyên sâu; sưu tầm, triệt để khai thác các nguồn tư liệu trong nước, quốc tế để xây dựng Bộ tư liệu chuẩn quốc gia về Biển đảo Việt Nam. Đây chính là cơ sở dữ liệu lớn (Big data), tập đại thành về biển đảo Việt Nam gồm nhiều lĩnh vực: Tự nhiên, lịch sử, xã hội, văn hóa, bằng chứng lịch sử, pháp lý… về biển đảo. Cùng với đó, Việt Nam cần sớm có kế hoạch đào tạo (trong nước, quốc tế) một đội ngũ chuyên gia (gồm nhiều thế hệ) về biển đảo. Đó là nguồn nhân lực biển chất lượng cao, những người có kiến thức toàn diện, chuyên sâu, đạt trình độ quốc tế về biển đảo trên các lĩnh vực: Quản lý biển, luật pháp quốc tế, kinh tế biển, sử học (hải sử), khảo cổ học biển đảo/khảo cổ học dưới nước, xã hội học, nhân học biển, quản lý văn hóa biển, khoa học và công nghệ biển, hải dương học,…
Loại hình “Di sản tư liệu” đã được bổ sung nội dung thành 01 Chương mới trong Luật di sản văn hóa (sửa đổi), đánh dấu sự nỗ lực trong việc hoàn thiện hành lang pháp lý của Việt Nam và nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam là quốc gia thành viên. Vì vậy, sau khi Luật được ban hành, cần triển khai theo đúng lộ trình để bảo vệ và phát huy giá trị tương ứng như với di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể trên toàn quốc. Đối với các Khu dự trữ sinh quyển Thế giới và Công viên địa chất toàn cầu, đề nghị giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý. Tuy nhiên, nên có lưu ý với các khu di sản đó nếu có một phần hoặc toàn bộ diện tích thuộc về các khu di sản đã được xếp hạng cấp tỉnh/thành phố, quốc gia và quốc gia đặc biệt phải được bảo vệ và phát huy theo quy định của Luật Di sản văn hóa và các văn bản quy định khác hiện hành.
Cho đến nay đã có 130 di tích được xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt và 294 hiện vật, nhóm hiện vật được công nhận là Bảo vật quốc gia. Tại khoản 3 Điều 41 Luật di sản văn hóa năm 2001 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định: “Bảo vật quốc gia được bảo vệ và bảo quản theo chế độ đặc biệt”. Tuy nhiên, một số bảo vật quốc gia đã được công nhận nhưng gần như chưa được các địa phương quan tâm bảo vệ, bảo quản theo chế độ đặc biệt, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn đối với bảo vật. Các địa phương có di tích được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt cũng chưa có sự quan tâm đúng mức đến công tác quản lý, bảo vệ, bảo tồn di tích đặc biệt này.
Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ đạo các địa phương có biện pháp, phương án cụ thể để bảo vệ và bảo quản đặc biệt đối với bảo vật quốc gia; đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố quan tâm đúng mức đến việc xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị đối với di tích đã được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt, đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi những quy định đối với hai loại tài sản đặc biệt này.
Về phương hướng hoạt động nhiệm kỳ (2025 – 2029)
Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia sẽ tập trung thực hiện hiệu quả các nội dung hoạt động quy định trong Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) và quyết định của Thủ tướng Chính phủ, cụ thể như sau:
Tham mưu, xây dựng phương hướng, chiến lược, các chính sách lớn về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; Tham gia xây dựng, góp ý các văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa, sửa đổi, bổ sung Luật Di sản văn hóa và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan trong thời gian tới.
Tư vấn, thẩm định góp ý trình Thủ tướng Chính phủ hồ sơ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt; xác định chỉ có khu vực bảo vệ I đối với di tích quốc gia đặc biệt; Công nhận bảo vật quốc gia theo kế hoạch hằng năm.
Tư vấn, thẩm định các hồ sơ trình Thủ tướng Chính phủ đề nghị UNESCO đưa di sản văn hóa thiên nhiên, di sản văn hóa phi vật thể và di sản tư liệu tiêu biểu của Việt Nam vào Danh mục Di sản thế giới;
Nghiên cứu đề xuất trình Thủ tướng Chính phủ 2 đến 3 báo cáo tư vấn. Tham gia ý kiến đối với các vấn đề khoa học về di sản văn hóa liên quan đến các dự án lớn về kinh tế – xã hội và các vấn đề quan trọng khác về di sản văn hóa do Thủ tướng Chính phủ yêu cầu hoặc Hội đồng thấy cần kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ.
Thúc đẩy hoặc triển khai dự án xây dựng cơ sở dữ liệu về di sản văn hoá trên nền tảng công nghệ thông tin. Xây dựng mô hình hợp tác công tư trong bảo tồn di sản văn hoá (bảo tàng ngoài công lập, di sản văn hoá phi vật thể, di sản vật thể và di sản tư liệu).
Tổ chức các hoạt động của Hội đồng: các phiên họp thường kỳ và đột xuất, chuyên đề, khảo sát hằng năm, tổ chức 03 đến 04 hội thảo khoa học toàn quốc về các vấn đề về di sản văn hóa quan trọng của đất nước; phát triển công nghiệp văn hóa, xây dựng thị trường văn hóa; chuyển đổi số trong công tác quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa; các khuynh hướng văn hóa mới và những thách thức văn hóa mang tính toàn cầu; tăng cường hợp tác quốc tế trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị các loại hình di sản văn hóa dân tộc./.