Trong lịch sử các quốc gia quân chủ phương Đông, kinh đô và cung điện không chỉ là trung tâm quyền lực mà còn là “văn bản không gian” lưu giữ tư tưởng trị quốc, lễ nghi và mỹ học của mỗi triều đại. Ở Việt Nam, truyền thống ấy kết tinh qua hai cột mốc rực rỡ: Hoàng thành Thăng Long (1010–1789) và quần thể cung điện Huế (1802–1945) (1). Không chỉ là trung tâm chính trị kéo dài nhiều thế kỷ, Thăng Long và Huế còn là hai đỉnh cao của tư duy quy hoạch kiến trúc cung đình, biểu hiện năng lực tiếp biến tinh hoa khu vực để kiến tạo bản sắc Việt.
Bài viết này, trên nền khái quát về cấu trúc và giá trị của hai kinh đô tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam, tập trung làm rõ một chủ đề then chốt: mối quan hệ không gian – nghi lễ giữa điện Thái Hòa và điện Cần Chánh ở Huế như một “mẫu hình diễn giải” hữu ích trong việc khảo cứu điện Kính Thiên và các điện liên thuộc ở Thăng Long.

Hoàng thành Thăng Long: Nền tảng của mô hình kinh đô Việt
Năm 1010, vua Lý Thái Tổ ban Chiếu dời đô xác lập Thăng Long ở thế đất “rồng cuộn hổ ngồi”, mở ra không gian quyền lực với ba vòng thành: La thành (phòng thủ), Hoàng thành (chính trị, hành chính) và Cấm thành (hoàng cung). Trong gần một thiên niên kỷ, các triều Lý, Trần, Lê, Mạc, Lê Trung Hưng liên tục kiến tạo, hình thành hệ thống cung điện, nghi lễ gắn tư tưởng Nho giáo. Điện Kính Thiên là hạt nhân nghi lễ và chính trị, sân Đan Trì là “trường lễ” quy tụ bá quan, trong khi đô thị Thăng Long phát triển thành một trung tâm trao đổi kinh tế, văn hóa sầm uất (“36 phố phường”), khẳng định vai trò “ngàn năm văn hiến”.

Kinh đô Huế: Đỉnh cao tổng hợp hoàn chỉnh thế kỷ XIX
Về bối cảnh và quy hoạch: Từ năm 1802, tổng thể Huế đạt đến sự đồng bộ hiếm có: Kinh thành kiểu Vauban kết hợp truyền thống Việt; Hoàng thành (khoảng 72 mẫu/36 ha) phân minh Ngoại triều, Nội đình; Tử Cấm thành (khoảng 18 mẫu/9 ha), không gian sinh hoạt riêng của hoàng gia; kết nối một mạng lưới đàn miếu, lăng tẩm, ngự viên, hành cung tạo thành mô hình “đô thị kép” (thế giới người sống, thế giới tiền nhân theo hai chiều Đông- Tây, lấy sông Hương làm mạch nối).
Về những giá trị đặc sắc, nổi bật: Huế dung hợp ba lớp ảnh hưởng: nguyên lý phong thủy, trật tự nghi lễ phương Đông; kỹ thuật, hình thái phòng thủ phương Tây; và yếu tố bản địa Đông Nam Á (đô thị nước, thích nghi thủy hệ). Sự hòa quyện ấy kết tinh thành di sản đô thị cung đình toàn vẹn nhất trong lịch sử Việt Nam, được UNESCO vinh danh (1993).

Những tương đồng cốt lõi giữa Thăng Long và Huế
Thứ nhất là, đề cao thuật phong thủy và sử dụng quy hoạch ba vòng thành: Cùng tuân thủ “tiền án, hậu chẩm, tả long, hữu hổ, minh đường thủy tụ” và mô hình Kinh thành, Hoàng thành, Cấm thành.
Thứ hai là, hệ thống nghi lễ, đàn miếu: Cùng hiện diện đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc, tông miếu, văn, võ miếu, phản ánh sự hợp thức hóa quyền lực qua trật tự Nho giáo.
Thứ ba là, cùng có kiểu “Đô thị nước”: Thăng Long gắn với hệ sông Nhị Hà, Tô Lịch, Kim Ngưu; Huế đặt trên trục sông Hương, Ngự Hà và hệ thống kênh hào, coi thủy đạo là hạ tầng nghi lễ, quân sự, sinh thái.
Thứ tư là, tiếp biến truyền thống ngoại lai: Nếu Thăng Long thiên về khuôn mẫu phương Đông, thì Huế nâng cấp toàn bộ mô hình, phối ghép nhuần nhuyễn kỹ thuật Tây phương để đạt độ hoàn chỉnh cao.
Ngoài ra có thể thấy bước phát triển của Huế so với kinh đô Thăng Long như sau:|
Về tính tổng thể đồng bộ: Huế là đồ án tổng thành, từ thành trì, cung điện, đàn miếu đến phố phường, làng nghề, hiệp lực trong một ý niệm quy hoạch thống nhất.
Về tính biểu tượng quyền lực “cuối cùng”: Nếu Thăng Long là “ngàn năm văn hiến”, Huế là điểm kết tinh sau cùng của kinh đô phong kiến, nơi trật tự nghi lễ đạt độ quy phạm cao độ.
Về liên kết cảnh quan văn hóa mở rộng: Hệ lăng tẩm thượng lưu sông Hương nối đô thị sống với đô thị tổ tiên, tạo chỉnh thể đô thị hài hoà âm dương hiếm thấy, đây là điểm khác biệt và phát triển so với Thăng Long.

Về “Cặp đôi nghi lễ” ở Huế: điện Thái Hòa, điện Cần Chánh như một mô hình giải mã
Về vị trí, lịch sử, cấu trúc: Điện Thái Hòa (trung tâm Ngoại triều) là nơi đặt ngai vàng, cử hành Đại triều, đăng quang, Vạn thọ, Khánh hạ, Đoan Dương, Truyền lô… Kiến trúc “trùng thiềm điệp ốc”, nội thất 80 cột lim sơn son thếp vàng, liên ba “nhất thi nhất họa” thể hiện mỹ học cung đình. Đời Minh Mạng dời – đại tu (1833) để hoàn chỉnh trục nghi lễ; đến Khải Định tiếp tục trùng kiến (1923–1924) theo tinh thần cải tân, nhưng vẫn bảo toàn nghi môn, trật tự.
Điện Cần Chánh (chủ điện Nội đình, cung Càn Thành), cách Thái Hòa 50m về Bắc, là không gian Thường triều, phất thức ấn tín, nghênh sứ, yến tiệc khánh hỷ; đồng thời giữ vai trò “tiền phòng nghi lễ”: nhà vua xuất phát tại đây để tiến ra Thái Hòa khi thiết Đại triều, rồi hồi nhập Cần Chánh cho phần nghi thức nội bộ. Dù bị hủy năm 1947, dấu tích nền móng, văn bản triều Nguyễn và tư liệu ảnh cho phép phục nguyên có cơ sở.
Về cơ chế vận hành nghi lễ “Nội, Ngoại” (Âm, Dương): Một Đại triều điển hình như lễ Chánh Đán cho thấy trình tự: vua mặc triều phục từ điện Cần Chánh → qua Đại Cung Môn → ngự điện Thái Hòa làm lễ trước bá quan → hồi điện Cần Chánh để ban yến tiếp kiến nội bộ. Như vậy, điện Cần Chánh là “trạm nghi lễ nội”, điện Thái Hòa là “sân khấu nghi lễ ngoại”; hai điện vận hành theo logic trong, ngoài / âm, dương để hoàn tất một chu trình nghi lễ hoàn chỉnh. Cấu trúc này khác đáng kể so với Trung Hoa (Ngoại triều giải quyết trọn gói tiền, chính, hậu nghi; Nội đình tách biệt) hay Triều Tiên/Nhật Bản (điện chính Ngoại triều đảm trách toàn bộ nghi lễ lớn; Nội đình thuần cư trú/tiểu nghi). Huế độc đáo ở chỗ ghép cặp hai điện chính theo quan hệ chức năng động.

Gợi mở cho Thăng Long: đọc điện Kính Thiên qua “phương pháp cặp đôi”
Tư liệu Lễ nghi chí (Phan Huy Chú) và sử liệu thời Lê cho thấy điện Kính Thiên (chính điện Cấm thành) phối hợp với điện Vạn Thọ (vai trò chuẩn bị nghi thức) và điện Thị Triều (không gian triều kiến phía trước), tạo nên tam vị có chức năng đan cài: Vạn Thọ là “nội điện” chuẩn bị xuất phát; Kính Thiên/Đan Trì là trường nghi chính; Thị Triều đảm trách những tình huống – cấp độ nghi lễ khác. Cách “ghép cặp” Kính Thiên, Vạn Thọ có thể soi rọi từ cặp Thái Hòa, Cần Chánh của Huế:
Khi Kính Thiên được nghiên cứu, phục hồi, cần đồng thời khảo cứu phục hồi Vạn Thọ và các công trình liên thuộc để không gian nghi lễ vận hành trọn chu trình (tiền nghi, chính nghi, hậu nghi).
Việc đọc mặt bằng, tuyến di chuyển, bậc nền, vị trí khuyết đài/đài vọng, tổ chức sân triều, hành lang, cửa nách… cần đặt trong mô hình chức năng kép (nội/ngoại) thay vì chỉ mô hình “một điện, một sân”.

Một số bài học quy hoạch, quản trị di sản từ hai kinh đô
Thứ nhất, quy hoạch tổng thể, liên kết thủy hệ: Cả hai kinh đô đều coi thủy đạo là hạ tầng nghi lễ, sinh thái; Huế đẩy xa hơn thành mạng lưới kênh, hồ điều hòa khí hậu, vận tải nghi lễ, quân sự, một gợi ý cho đô thị di sản “thích ứng nước” hiện đại.
Thứ hai, về trật tự nghi lễ như “hệ điều hành” đô thị: Sơ đồ điện, sân, cửa, hành lang là cấu hình phần cứng; nghi lễ là phần mềm vận hành, quyết định cách sử dụng kết nối không gian. Phục hồi di tích vì thế phải phục dựng cả quy trình nghi lễ (đoàn ngự đạo, nhạc khí, nghi trượng, vị trí các ban, sở) để di sản “sống”.
Thứ ba là, cặp không gian chức năng: Mô hình Thái Hòa, Cần Chánh gợi cách tổ chức “cặp đôi” cho các hạt nhân nghi lễ trong quần thể, bảo đảm chu trình trước, trong sau nghi thức; đây là chìa khóa để thiết kế trưng bày, diễn xướng, sản phẩm du lịch nghi lễ cung đình.

Một số định hướng bảo tồn phát huy trong thế kỷ XXI
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, xây dựng “thành phố di sản xanh, thông minh, bền vững” cần:
Cần nghiên cứu phục hồi trọn vẹn các cặp/chuỗi không gian nghi lễ (Huế: Cần Chánh, Thái Hòa; Càn Thành, Ngọ Môn; Thăng Long: Vạn Thọ, Kính Thiên; Đan Trì, Đoan Môn), gắn với lộ trình diễn giải số (AR/VR, bản đồ tương tác tuyến nghi lễ, dữ liệu 3D liên văn bản).
Quy hoạch cảnh quan thủy hệ như hạ tầng văn hóa – sinh thái, tái hiện “đô thị nước” với các tuyến tham quan giáo dục di sản gắn sông hồ.
Sản phẩm nghi lễ đương đại hóa (diễn xướng, lễ hội học thuật hóa) theo nguyên tắc bảo tồn giá trị cốt lõi nhưng tăng cường trải nghiệm công chúng.
Từ Thăng Long đến Huế là một dòng chảy liên tục của tư duy quy hoạch kinh đô Việt Nam: Thăng Long đặt nền tảng, Huế đưa mô hình ấy lên tầm tổng hợp và hoàn chỉnh nhất. Việc “đọc” cặp điện Thái Hòa, Cần Chánh như một mô hình chức năng giúp giải mã cấu trúc nghi lễ của cung điện Việt, đồng thời gợi mở hướng tiếp cận mới cho nghiên cứu và phục hồi điện Kính Thiên, điện Vạn Thọ ở Thăng Long.
Bảo tồn hai di sản kinh đô không chỉ là tri ân quá khứ, mà còn là hành động kiến tạo tương lai, một thực hành quy hoạch văn hóa, góp phần hình thành bản sắc đô thị Việt dựa trên ba yếu tố cốt lõi: di sản, nước, nghi lễ. Từ đó, hướng tới những đô thị di sản sống động, xanh, thông minh, bền vững, nơi quá khứ và hiện đại cùng song hành trong nhịp sống đương đại.
TS.Phan Thanh Hải
Chú thích:
Kinh đô Huế có nền tảng từ thủ phủ Kim Long rồi Đô thành thời chúa Nguyễn (1636-1774) và kinh đô Phú Xuân thời kỳ Tây Sơn (1788-1801), do đó đây là một đô thị có lịch sử gần 400 năm, được quy hoạch và phát triển trong nhiều thời kỳ.
Tư liệu tham khảo
1.Amadou Mahtar M’Bow (1999), “Vì công cuộc bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hóa của Thành phố Huế”, in trong sách Huế-Di sản Văn hóa thế giới, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế xuất bản, Huế.
2.Lê Quý Đôn (1977), Phủ biên tạp lục (Lê Quý Đôn toàn tập- tập I), Nxb KHXH, Hà Nội
3.Nội Các triều Lê- Trịnh (1993), Đại Việt sử ký toàn thư, Viện KHXH Việt Nam, Nxb KHXH, 4 tập, Hà Nội.
4.Nội Các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Bản dịch của Viện Sử học, Nxb Thuận Hóa, Huế, tập 13: Bộ Công.
5.Phan Thanh Hải (2004), “Tìm hiểu nguồn gốc đô thị Huế từ việc khảo sát hệ thống thủ phủ thời các chúa Nguyễn”, NCLS, số 9-10.
6.Phan Thanh Hải (2007), “Phong thủy trong quy hoạch đô thị Huế, một cái nhìn lịch sử”, Tạp chí Huế, Xưa và Nay, số 83 (9-10), Huế.
7.Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1992), Đại Nam Nhất Thống Chí, Tập I: Kinh sư, Nxb Thuận Hóa, Huế.
8.Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam Thực Lục, Tập I, Bản dịch Viện Sử học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.


