Cách đây 50 năm, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, quân và dân ta đã giành thắng lợi trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, kết thúc cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước. Chiến thắng này là một đỉnh cao chói lọi của nghệ thuật quân sự Việt Nam, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chính trị và quân sự, giữa chiến tranh Nhân dân và các đòn tiến công chiến lược, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Đồng thời, nó để lại nhiều bài học, kinh nghiệm quý báu cho các thế hệ sau về ý chí độc lập, tự cường; về sự lãnh đạo tập trung, thống nhất; về cách huy động sức mạnh toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 diễn ra trong 55 ngày đêm với tốc độ thần kỳ “một ngày bằng 20 năm”. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công đã đập tan chế độ ngụy quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và đưa nước ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 còn đánh dấu sự phát triển vượt bậc của nghệ thuật chỉ đạo chiến lược.
Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là sự vận dụng sáng tạo, mẫu mực, điển hình về nghệ thuật chỉ đạo chiến lược nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp chiến tranh Nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 của quân dân Việt Nam bắt đầu từ ngày 4/3/1975 và kết thúc vào ngày 30/4/1975, trong đó tiến công quân sự đóng vai trò quyết định với ba chiến dịch chiến lược liên tục về thời gian và liên kết về không gian. Mỗi chiến dịch chiến lược có cách thức tổ chức thực hiện độc đáo, sáng tạo khác nhau.

Đầu tiên, chiến dịch Tây Nguyên (từ ngày 4/3 đến ngày 3/4/1975)
Là trận đầu của Chiến dịch nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng các tỉnh Nam Tây Nguyên, mở rộng hành lang nối liền Tây Nguyên với miền Đông Nam Bộ và đồng bằng Khu 5, thực hiện chia cắt chiến lược, tạo cục diện mới cho chiến trường. Trong đó, Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên xác định trận tiến công thị xã Buôn Ma Thuột là trận then chốt. Trong trận này, lực lượng cách mạng hoàn toàn áp đảo. Ta sử dụng cách đánh mới: Tổ chức các mũi đột kích binh chủng hợp thành kết hợp với các đơn vị đặc công và bộ binh bí mật triển khai trước đánh thẳng vào trung tâm thị xã, nhanh chóng tiêu diệt cơ quan chỉ huy đầu não địch rồi phát triển ra ngoài thị xã.
Đòn tiến công thị xã Buôn Ma Thuột đã “điểm trúng huyệt”, làm rung động thế trận của đối phương, “tạo ra đột biến về chiến dịch, dẫn đến đột biến về chiến lược, gây tác động dây chuyền, tạo thời cơ cho những trận then chốt tiếp sau, tạo nên bước ngoặt quyết định của sự phát triển chiến dịch và cả chiến lược dẫn đến sự phá vỡ chiến lược”(1). Đòn tiến công đã làm cho Mỹ, chính quyền Sài Gòn hoàn toàn bị bất ngờ, choáng váng. Mọi sự kháng cự và ứng cứu sau đó của địch đều bị đập tan. Đến trưa ngày 11/3, quân ta hoàn toàn làm chủ thị xã.
Việc đánh chiếm giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột trong hơn một ngày đêm là một trong những chiến công vang dội của lực lượng cách mạng trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước, trực tiếp mở ra thắng lợi của toàn chiến dịch Tây Nguyên nói riêng, toàn bộ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 nói chung. Sau chiến thắng thần kỳ của ta ở Buôn Ma Thuột, Báo Le Monde (Pháp) số ra ngày 21/3/1975 viết: “Trong vài ngày, bản đồ quân sự miền Nam bị đảo lộn. Chỉ có trận Buôn Ma Thuột mà khiến cho mảng cấu trúc do chế độ Thiệu dựng lên bị sụp đổ. Hóa ra Buôn Ma Thuột mang cái đà của một bước ngoặt trong cuộc xung đột đến nay đã được 30 năm”(2). Thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên đã chứng minh cho nhận định của Tư lệnh Chiến dịch Hoàng Minh Thảo: “Mưu sinh ra kế, thế đẻ ra thời. Đánh bằng mưu kế, thắng bằng thời thế”. Đó là tinh hoa của nghệ thuật quân sự Việt Nam hiện đại.

Tiến công giải phóng Huế – Đà Nẵng (từ ngày 26 đến ngày 29/3/1975).
Sau khi mất Tây Nguyên, chính quyền và quân đội Sài Gòn rơi vào tình trạng hoang mang, rối loạn. Địch tập trung quân về giữ thành phố Huế và khu liên hợp quân sự Đà Nẵng, chờ đợi viện binh từ phía Nam ra phản công.
Tranh thủ thời cơ, ta nhanh chóng mở cuộc tiến công giải phóng Huế (26/3), sau đó phát triển thành chiến dịch tiến công quy mô lớn bằng thế hợp vây của ba cánh quân từ ba hướng Bắc, Tây, Nam đánh vào Đà Nẵng, phá tan thế co cụm, diệt và làm tan rã 10 vạn tên địch, làm thay đổi hẳn tương quan so sánh lực lượng trên chiến trường.
Sau khi giành thắng lợi ở chiến dịch Huế – Đà Nẵng, đến những ngày đầu tháng 4/1975, qua phân tích tình hình, Bộ Chính trị khẳng định: “Mỹ tỏ ra hoàn toàn bất lực, dù có tăng viện cũng không thể cứu vãn được tình thế của Việt Nam Cộng hòa. Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt, mà thời cơ để mở tổng tiến công và nổi dậy tại Sài Gòn – Gia Định đã chín muồi”(3). Từ nhận định trên, ta gấp rút chuẩn bị lực lượng cho trận chiến cuối cùng.
Trong lúc các đơn vị triển khai kế hoạch, ngày 7/4/1975, Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp thay mặt Bộ Chính trị và Bộ Tổng Tư lệnh ra Mệnh lệnh (Điện số 157/TK) cho các cánh quân: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng giờ, từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”(4). Ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị đồng ý với đề nghị của Đại tướng Văn Tiến Dũng đặt tên chiến dịch giải phóng Sài Gòn – Gia Định là chiến dịch Hồ Chí Minh. Những ngày cuối tháng 4/1975, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam dồn sức cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, trong đó, xác định 5 mục tiêu quan trọng nhất cần đánh chiếm bằng được: Bộ Tổng tham mưu, Dinh Độc lập, Biệt khu thủ đô, Tổng nha cảnh sát, sân bay Tân Sơn Nhất.
Về mặt lực lượng, quân ta vẫn chiếm ưu thế áp đảo nhưng đánh bằng cách nào để đạt hiệu quả cao nhất, vừa phát huy hết sức mạnh của tất cả lực lượng, giành thắng lợi nhanh nhất, vừa giảm thiểu được sự tàn phá của chiến tranh (giữ được Sài Gòn hầu như nguyên vẹn) là vấn đề cấp thiết. Ở Sài Gòn, lúc này, địch bố trí các sư đoàn chủ lực mạnh nhằm ngăn chặn quân ta từ xa 30 – 50km, đề phòng khi bị tiến công sẽ từng bước lùi dần và co cụm về Sài Gòn “tử thủ”.
Bộ Tư lệnh Chiến dịch sử dụng cách đánh rất linh hoạt, sáng tạo, đó là dùng một bộ phận lực lượng thích hợp trên từng hướng, đủ sức hình thành bao vây, tiêu diệt, làm tan rã tại chỗ các sư đoàn chủ lực của địch ở vòng ngoài; đồng thời dùng đại bộ phận lực lượng nhanh chóng thọc sâu đánh chiếm các địa bàn then chốt ven đô, mở đường cho các binh đoàn đột kích cơ giới hóa mạnh đã được tổ chức chặt chẽ, tiến nhanh theo các trục đường lớn đánh thẳng vào 5 mục tiêu đã được lựa chọn trong nội thành. Với cách đánh như vậy, quân ta hoàn toàn tập trung được sức mạnh để đánh vào các mục tiêu chủ yếu đã lựa chọn kết hợp với tiêu diệt địch ở vòng ngoài không cho địch trong ngoài ứng cứu làm giảm bước tiến quân của ta.
Thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã khẳng định cách đánh này là hoàn toàn đúng đắn. Đặc biệt, cách mạng đã giữ được thành phố Sài Gòn hầu như nguyên vẹn. Đó là một thành công lớn.
Phối hợp chặt chẽ với các đòn quân sự then chốt là các cuộc tiến công và nổi dậy của quân dân các địa phương khắp chiến trường (đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long) theo phương thức “xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh”. Đến ngày 2/5/1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 thể hiện rõ nghệ thuật chỉ đạo chiến lược của Đảng.
Thứ nhất, chỉ đạo các chiến trường đánh trả địch lấn chiếm có hiệu quả, vừa chiến đấu vừa tổ chức, xây dựng lực lượng, tạo thế trận tiến công
Sau Hiệp định Paris, một số địa bàn do thiếu cảnh giác nên để mất dân, mất đất. Trong khi đó, quân ngụy liên tục mở các cuộc hành quân lấn chiếm, thực hiện âm mưu “tràn ngập lãnh thổ”, xóa các “lõm” và lấn chiếm các vùng giải phóng của ta ở đồng bằng và miền núi. Trước tình hình trên, Nghị quyết số 236-NQ/TW ngày 13/8/1974 của Bộ Chính trị chỉ rõ: “Về quân sự, đẩy mạnh chiến đấu, phá các cuộc hành quân bình định và lấn chiếm của ngụy, tiêu diệt và tiêu hao nhiều sinh lực địch, thu hồi các vùng bị địch lấn chiếm, bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ các căn cứ địa; ra sức thực hiện ba mũi giáp công để giành thắng lợi lớn hơn nữa”(5).
Từ chủ trương trên, các chiến trường đẩy mạnh hoạt động quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị và binh vận, đánh bại các cuộc hành quân lấn chiếm của địch. Từ chỗ bị động chống đỡ các cuộc hành quân lấn chiếm của địch, ta chủ động phản công, tiến công địch, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng. Trong năm 1974, do hoạt động mạnh của ta, địch phải rút bỏ nhiều vị trí như Đắk Song, Kiến Đức, Tống Lê Chân (miền Đông Nam Bộ), Thượng Đức, Nông Sơn, Măng Đen… Thế và lực của quân ngụy trên các chiến trường suy giảm rõ rệt. Mặt khác, không còn chỗ dựa là quân Mỹ, hỏa lực pháo binh, không quân và xe thiết giáp giảm 40 – 70%, sức cơ động giảm 50%. Tuy quân số còn đông, trang bị còn nhiều, nhưng tinh thần chiến đấu của quân ngụy sa sút nghiêm trọng. Trong khi đó, quân và dân ta ở miền Bắc khẩn trương tăng cường lực lượng, vận chuyển vật chất vào chiến trường, mở rộng và phát triển hệ thống đường chiến lược. Cùng với việc kiên quyết đánh bại địch lấn chiếm, nhiều sư đoàn chủ lực được luân phiên nghỉ ngơi, củng cố, huấn luyện nâng cao trình độ tác chiến.
Để chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược, ta đã tổ chức 3 quân đoàn (1, 2, 4). Đây là bước phát triển cao nhất về tổ chức lực lượng tác chiến của quân đội ta. Trên miền Bắc, Quân đoàn 1 là lực lượng dự bị chiến lược, ở miền Trung có Quân đoàn 2 và các sư đoàn, trung đoàn chủ lực của Quân khu 5 đã hình thành một lực lượng chủ lực mạnh uy hiếp Quân khu l ngụy. Ở miền Đông Nam Bộ có Quân đoàn 4, các sư đoàn chủ lực Miền và lực lượng vũ trang địa phương, hình thành một lực lượng uy hiếp Sài Gòn. Ở Tây Nguyên, ta đã hình thành một lực lượng mạnh. Các lực lượng chủ lực của ta được bố trí ở những địa bàn chiến lược, có thể tiến công vào nơi hiểm yếu của địch, đồng thời kết hợp với tổ chức các lực lượng vũ trang địa phương, hỗ trợ đắc lực cho nổi dậy của quần chúng làm cho địch bị động đối phó trên khắp các chiến trường. Trong khi ta tổ chức lực lượng tác chiến đến cấp quân đoàn, thì địch trên thực tế mới tổ chức đến cấp sư đoàn. Cấp quân khu (kiêm quân đoàn) của địch chỉ là đơn vị lãnh thổ, không có bộ tư lệnh quân đoàn riêng. Trên thực tế, lực lượng cơ động chiến lược của ta được tăng cường mạnh, được củng cố, huấn luyện sung sức, thì hai sư đoàn dự bị chiến lược của địch đã bị kìm giữ tại chiến trường Quân khu 1, các sư đoàn chủ lực còn lại phải mở những cuộc hành quân liên tục, mệt mỏi, xuống sức.
Thứ hai, phân tích đánh giá đúng thế trận phòng ngự chiến lược của địch, chọn hướng tiến công chiến lược chính xác.
Do phải đối phó với thế bố trí chiến lược và phán đoán không đúng ý định tiến công của ta, quân ngụy tổ chức phòng ngự chiến lược theo thế trận dài, chạy dọc theo trục đường 1, đường 14. Tập trung phòng ngự mạnh ở hai đầu là Quân khu (Quân đoàn) 1 vùng Quảng Trị, Huế – Đà Nẵng và Quân khu (Quân đoàn) 3 vùng Sài Gòn – Gia Định. Cả vùng Quân khu (Quân đoàn) 2 rộng lớn chúng chỉ bố trí 2 sư đoàn chủ lực (Sư đoàn 22 ở đồng bằng ven biển, Sư đoàn 23 cùng các liên đoàn biệt động quân trên chiến trường Tây Nguyên).
Về phía ta, sau nhiều năm chuẩn bị, quân và dân ta đã tạo được thế trận chiến lược rất có lợi, vừa có thế “cài răng lược”, vừa có thế đánh hiểm. Ta chọn hướng tiến công chiến lược là Tây Nguyên, rất hiểm yếu về chiến lược nhưng địch mỏng về lực lượng. Chiến trường Tây Nguyên có vị trí đặc biệt quan trọng đối với cả Đông Dương. Trên chiến trường Tây Nguyên, ta chọn Nam Tây Nguyên để mở chiến dịch và xác định Buôn Ma Thuột là điểm đột phá đầu tiên, là mục tiêu tiến công chủ yếu. Đánh chiếm Buôn Ma Thuột sẽ làm rung chuyển toàn bộ thế trận phòng ngự của địch ở Tây Nguyên, buộc chúng phải đối phó, tạo ra phản ứng dây chuyền. Từ Tây Nguyên, ta có thể nhanh chóng phát triển xuống đồng bằng Khu 5, chia cắt thế trận phòng ngự địch ra làm đôi, phá vỡ thế chiến lược của chúng. Đồng thời có thể phát triển theo đường 14, đường 20, đường 26 xuống miền Đông Nam Bộ, nhanh chóng bao vây, uy hiếp Sài Gòn.
Như vậy, ta không đánh dọc từ Quảng Trị vào, vì đánh như vậy ta phải đột phá suốt chiều dài phòng ngự chiến lược của địch. Ta tiến công theo hướng từ Tây sang Đông, chỉ cần thực hiện đột phá chiến dịch, đã có thể chia cắt chiến lược, đạt tới mục tiêu chiến lược. Ta đã thực hiện “sức dùng một nửa, mà công giành gấp đôi”, tạo ra đột biến chiến lược có lợi chưa từng có. Chọn hướng tiến công chiến lược vào Nam Tây Nguyên, với trận mở đầu Buôn Ma Thuột, ta đã chọn đúng nơi địch yếu, dễ phá vỡ thế chiến lược của địch, đồng thời có nhiều thuận lợi cho phát triển của ta. Ở chiến trường đó, ta có thể hạn chế tối đa khả năng ứng cứu nhanh của lực lượng tổng dự bị chiến lược của địch và nếu chúng ứng cứu ta cũng dễ ngăn chặn và đánh diệt. Cuộc tiến công chiến lược sẽ có điều kiện phát triển thuận lợi. Thực tiễn diễn biến chiến dịch Tây Nguyên (từ ngày 4 đến ngày 24/3/1975) đã chứng minh điều đó.
Thứ ba, vận dụng sáng tạo phương pháp tiến công chiến lược, chỉ đạo phối hợp các chiến trường chặt chẽ
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 được thực hiện qua các chiến dịch: Chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế – Đà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí Minh. Khi các đơn vị của ta đã cơ bản tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch rút chạy trên đường 7 tại Cheo Reo – Củng Sơn vào ngày 24/3/1975 (chiến dịch Tây Nguyên) thì ở Trị Thiên từ ngày 20 đến 25/3/1975, ta đã cắt đường 1 và tiến công giải phóng Huế, Tam Kỳ (Quảng Ngãi) và tiến công giải phóng Đà Nẵng. Như vậy, từ chiến dịch Tây Nguyên đến chiến dịch Huế – Đà Nẵng, ta đã vận dụng phương pháp tiến công gối đầu. Vận dụng phương pháp này đã làm cho dịch không có khả năng ứng cứu cho nhau và cũng không có thời gian co cụm đối phó. Tuy nhiên, đến chiến dịch Hồ Chí Minh, chúng ta không thể tiến công Sài Gòn gối đầu với Đà Nẵng vào đầu tháng 4/1975 được. Vì tiến công vào Sài Gòn là hang ổ cuối cùng của kẻ thù, ở đó lực lượng của địch còn rất đông, mà ta chỉ còn một lực lượng chiến lược. Mặc dù phải chạy đua về thời gian, nhưng để bảo đảm chắc thắng và có thể kết thúc chiến tranh, chúng ta phải cơ động lực lượng từ miền Bắc, miền Trung vào, tạo ưu thế áp đảo, đánh thắng địch trong điều kiện chúng đã tổ chức phòng ngự về chiến dịch (phòng ngự vững chắc thành 3 tuyến: tuyến ngoại vi, ven đô và nội đô), nhưng trong thế tan vỡ về chiến lược. Như vậy, từ tiến công trên chiến trường trọng điểm Tây Nguyên, ta đã nắm bắt thời cơ, tổ chức tiến công gối đầu chiến dịch Huế – Đà Nẵng và vận dụng phương pháp kế tiếp để bảo đảm chắc thắng cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng là chiến dịch Hồ Chí Minh.
Về chỉ đạo phối hợp trên các chiến trường, khi chiến dịch Tây Nguyên mở màn thì các chiến trường khác được lệnh đẩy mạnh tác chiến phối hợp không cho địch rút lực lượng đi ứng cứu cho Tây Nguyên (đồng thời với chiến dịch tiến công Tây Nguyên, từ ngày 5/3/1975 trên hướng Trị Thiên ta mở chiến dịch tiến công phối hợp; ngày 22/3/1975, lực lượng vũ trang Quân khu 5 đã cắt đường 1 từ Tam Kỳ (đi Đà Nẵng…). Chiến dịch Tây Nguyên thắng lớn, tạo ra đột biến về chiến lược, các chiến trường kịp thời chuyển sang hành động theo phương án thời cơ. Quân đoàn 2, Trị Thiên và Khu 5 giải phóng Huế – Đà Nẵng, Quân đoàn 4 cùng lực lượng vũ trang Nam Bộ được lệnh tích cực tạo thế cho chiến dịch giải phóng Sài Gòn. Khi ta tập trung lực lượng mở chiến dịch Hồ Chí Minh, lực lượng vũ trang Khu 8, Khu 9 đã kìm giữ Quân đoàn 4 địch tại chỗ và buộc chúng phải đầu hàng ngay sau khi giải phóng Sài Gòn. Ở miền Bắc ta vẫn còn Sư đoàn 308 để làm dự bị chiến lược.
Chuẩn bị lực lượng, thế trận, chọn hướng tiến công chiến lược chính xác và phối hợp giữa các chiến trường, các lực lượng vũ trang, các quân, binh chủng và nổi dậy của quần chúng đã phát huy cao độ sức mạnh tiến công của ta, dồn địch vào thế hoàn toàn bị động chống đỡ, mất khả năng cơ động, dẫn đến thất bại hoàn toàn và nhanh chóng. Từ kế hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm, với sự nỗ lực phi thường của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, ta đã thực hiện trọn vẹn trong thời gian chưa đầy hai tháng. Nắm vững quy luật chiến tranh, với bản lĩnh và kinh nghiệm được tích lũy trong gần 30 năm chiến đấu, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã tập trung sáng tạo trong chỉ đạo từ tiến công chiến lược phát triển thành Tổng tiến công và nổi dậy, giành thắng lợi nhanh nhất, trọn vẹn nhất trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước.
Chỉ trong khoảng thời gian tương đối ngắn (55 ngày đêm), dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, đặc biệt là nghệ thuật chỉ đạo chiến lược, quân và dân ta đã làm nên chiến thắng mang tầm lịch sử trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Một trong những nét đặc sắc về nghệ thuật quân sự trong toàn bộ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là “không chỉ dừng lại ở bước nắm đúng thời cơ, hạ quyết tâm chiến lược đúng đắn, mà khi thời cơ chiến lược xuất hiện sớm và nhanh hơn dự kiến các cơ quan chiến lược và chiến dịch đã biết kịp thời nắm bắt, chỉ đạo chiến lược sắc bén, kịp thời giành thắng lợi lớn hơn, nhanh hơn”(6). Đây là tinh hoa quân sự để các thế hệ người Việt Nam tiếp tục kế thừa, nghiên cứu, vận dụng trong công cuộc xây dựng thế và lực của nền quốc phòng toàn dân để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
ThS. Hồ Thức Tài, TS. Nguyễn Tôn Phương Du. TS. Bùi Nghĩa/Học viện Chính trị khu vực II
Tài liệu tham khảo
1.Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử nghệ thuật chiến dịch Việt Nam 1945 – 1975, Nxb Quân đội nhân dân, H, 1995, tr. 478.
2.Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975), t. 8 – Toàn thắng, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2013, tr. 281.
3.Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, t. 36, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2004, tr. 95.
4.Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2000, tr. 286.
5.Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng, Toàn tập, t. 35, Nxb Chính trị quốc gia, H, tr. 122.
6.Hoàng Văn Thái (2004), Những năm tháng quyết định, Nxb Quân đội nhân dân, H, tr. 151.