Thứ Năm, Tháng 10 30, 2025
* Email: bbt.dongnama@gmail.com *Tòa soạn: 0989011688 - 0768908888
spot_img

Nguyễn Tư Giản, một nhà nho tiêu biểu và thức thời của thế kỷ XIX



ĐNA -

Giữa những biến động dữ dội của nửa sau thế kỷ XIX, chân dung Nguyễn Tư Giản (tên khai sinh Nguyễn Văn Phú) nổi lên như một nhà nho thức thời hiếm có: vững ở nền tảng đạo lý, sáng suốt trước thời cuộc, và kiên định tìm kiếm những giải pháp “đúng việc, hợp thời” cho dân cho nước.

Toàn cảnh hai hàng bia Tiến sĩ triều Nguyễn ở Văn Miếu.

Ông sinh năm Nhâm Ngọ (1822) tại làng Du Lâm, tổng Hội Phụ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh; dòng họ khoa bảng, thanh bạch, tiên tổ có Nguyễn Quốc Thực đỗ Tiến sĩ thời Lê trung hưng. Tư Giản tự Tuân Thúc (hiệu Vân Lộc, Thạch Nông), tuổi thơ mồ côi, lớn lên trong nếp nhà đề cao chữ nghĩa, sớm tỏ chí hiếu học. Mười chín tuổi đi thi chưa đỗ, ba năm sau thi đỗ Cử nhân khoa Quý Mão (1843); sang Giáp Thìn (1844) đỗ Hoàng giáp, vinh quy bái tổ rồi vào kinh nhậm chức, mở đầu một đời làm quan hơn bốn mươi năm, nhiều thăng giáng nhưng luôn trong sạch.

Những năm đầu phục vụ triều đình, Nguyễn Tư Giản lần lượt kinh qua Hàn Lâm Viện Tu soạn, Tri phủ Ninh Thuận, rồi Cấp sự trung. Không lâu sau, ông được sung Thị độc tại Tập Hiền Viện, kiêm Kinh điển Khởi cư chú, rồi chuyển làm Học sĩ Hàn Lâm Viện Thị giảng, tham gia công việc Nội các. Vừa trực hầu, vừa đảm nhiệm văn thư, Nguyễn Tư Giản sớm bộc lộ tác phong của một lương thần: cẩn trọng, mẫn tiệp, đặt việc nước lên trên mọi hư danh. Vua từng khen ông là người “giữ được nếp nhà”. Từ vị trí ấy, ông thấu rõ cảnh triều đình đương thời chật vật giữa khuôn thước Nho học và cơn gió đổi thay của thời cuộc: sự tự mãn, khép kín của giới sĩ đại phu đối lập gay gắt với sức ép “tàu sắt, súng đồng” và làn sóng công nghệ, thương nghiệp Âu Tây đang tràn tới.

Tư duy thực tiễn của Nguyễn Tư Giản có dịp phát lộ rõ nét khi ông được giao phụ trách việc đê điều ở Bắc Kỳ. Năm Tân Dậu (1861), nhân dịp về quê bái yết tổ tiên, ông nhận mệnh khảo sát và trị thủy sông Nhị. Sau thời gian đo đạc địa hình, dòng chảy và cửa biển, ông dâng bản phương lược gồm mười điểm cụ thể: đắp đê chắn mặn, nạo vét cửa sông, dựng đập phòng lũ, đào sông nhánh, khơi dòng cũ, lấp chỗ trũng, dự trữ tiền gạo cứu hộ, trả công thợ đê thỏa đáng, khuyến khích quyên trợ và đặc biệt đề xuất lập ngạch dân đinh chuyên trách đê điều. Đó là một gói giải pháp mang tinh thần “hệ thống”: kỹ thuật gắn với tổ chức, tài chính đi cùng động lực xã hội. Ít lâu sau, ông được thăng Thị lang bộ Lại nhưng vẫn kiêm việc thủy lợi, dấu hiệu cho thấy triều đình tin cậy tầm nhìn “lấy dân sinh làm gốc” của vị đại thần thức thời này.

Nhưng lịch sử không chỉ ghi dấu Nguyễn Tư Giản ở những đồ án trị thủy. Năm Nhâm Tuất (1862), khi loạn Đông Bắc bùng phát, ông được cử làm Tham biện quân vụ tại Hải Yên. Tuy nhiều toán giặc bị dẹp, cục diện vẫn rối ren; ông bị cách chức, lâm bệnh và xin về quê. Đến Ất Sửu (1865), triều đình khôi phục cho ông hàm Hàn Lâm Viện Tu soạn, rồi lần lượt thăng Thị độc Tập Hiền Viện, chuyển Hồng Lô Tự Thiếu khanh Bộ Hộ. Chuỗi thăng giáng liên hồi ấy khắc họa rõ một phẩm cách kiên định: rơi xuống vẫn làm việc, trở lại vẫn hết mình, chẳng vướng bận lợi danh.

Một bước ngoặt khác đến vào năm Mậu Thìn (1868), khi ông thăng Hồng Lô Tự Khanh và được cử làm Phó sứ sang nhà Thanh. Chuyến đi mở rộng tầm nhìn: Trung Hoa cũng đang loay hoay trước làn sóng Tây dương; khoa cử Nho học tuy tinh vi nhưng bất lực trước bài toán “súng ống, máy móc, thương chính”. Trở về nước, ông dâng sớ chủ trương “thông thương với Âu – Mỹ”, khuyến nghị cử người sang học “kỹ nghệ mới lạ”, đồng thời viết nhiều thiên biện luận phản bác tư tưởng khinh thị “di quốc”. Nguyễn Tư Giản đề xuất con đường cải cách gọn, tinh, hiệu, đặc biệt cảnh báo tình trạng “quan nhiều mà dân đói”: “Nước nôi không tưới đều, khó mong cây gỗ thành danh mộc.” Thay vì gia cố một bộ máy cũ kỹ bằng hình phạt, ông đề nghị tổ chức những buổi “thuyết giảng” trong triều, nơi quan lại đối thoại công khai, lắng nghe “những điều kín ở lòng dân”. Ở đó, đã thấp thoáng tư tưởng về trách nhiệm giải trình trong quản trị công, điều hiếm thấy ở thế kỷ XIX.

Trong các đối sách ngoại giao, Nguyễn Tư Giản luôn giữ một đường lối rõ ràng: thương nghị phải đặt trên nguyên tắc chủ quyền. Ngay từ năm 1859, ông đã can gián triều đình không nên cầu hòa khi thế còn yếu, e “hỏng đại sự”; điều cần làm, theo ông, là chỉnh đốn nội trị, xây nền lực tự cường. Vì vậy, khi triều đình bàn việc cử phái bộ sang Pháp chuộc Nam Kỳ (khoảng 1873), ông phân tích cặn kẽ lợi hại và nhấn mạnh không thể “dâng nộp cả hai tay”. Dù không trực tiếp tham dự sứ vụ ấy, lập trường của ông vẫn nhất quán suốt những năm sau: kiên quyết trước các đòi hỏi vô lối của nhà cầm quyền bảo hộ, giữ trọn tiết tháo, đặt lợi ích quốc dân lên trên hết.

Sự nghiệp của ông cũng trải qua nhiều khúc quanh cay đắng. Năm Nhâm Thân (1872), giữa lúc Bắc Kỳ rối ren vì quan hệ với Pháp, ông cùng Trần Tiến Thành, Phạm Phú Thứ, Lê Bá Thận ngày đêm bàn việc cơ mật. Sau đó, vì một sai sót hành chính, ông bị giáng chức, phải đi Sơn phòng Chương Đức lo việc khai khẩn. Song tài năng và thanh danh của ông vẫn sáng. Năm Mậu Dần (1878), vua nhận thấy ông “văn chương giỏi hơn người” nên khôi phục hàm Thị độc Học sĩ, giao cai quản Hàn Lâm Viện, trung tâm học thuật lớn nhất triều Nguyễn. Đến Bính Tuất (1886), theo đề nghị của quan Kinh lược Bắc Kỳ, ông được bổ làm Tổng đốc, rồi chuẩn phong thực thụ. Ở bất kỳ cương vị nào, từ Nội các, Sử quán hay địa phương, Nguyễn Tư Giản vẫn một mực đem kỷ cương, liêm chính và hiệu quả vào thực tiễn trị nước.

Nguyễn Tư Giản không chỉ nổi bật ở năng lực quản trị mà còn ở thái độ thẳng thắn trước thời cuộc. Những năm 1886–1887, khi bị thúc ép “góp” công quỹ cho phía Pháp, ông dâng sớ biện giải: triều đình chưa có chỉ dụ minh bạch, ngân khố cạn kiệt, dân tình đói khổ, không thể chi tiêu vô lối để “lấy lòng”. Đó vừa là một sự khước từ, vừa là cách ông giữ trọn tiết tháo của một đại thần giữa buổi giao thời. Sau một thời gian lâm bệnh, ông cáo quan hồi hương, sống bằng dạy học và trước thuật, qua đời năm Canh Dần (1890), thọ 68 tuổi.

Ở địa hạt văn học, học thuật, Nguyễn Tư Giản là một “nhà nho đa năng” hiếm có. Thơ văn của ông qua các tập Vân Lộc, Thạch Nông, Nguyễn Tuân Thúc thi tập, Yên Thiều thi văn tập…, trầm tĩnh, uyên áo mà không cầu kỳ; luôn ánh lên nỗi ưu tư về dân sinh, biên cương và vận nước. Ông còn tham gia hiệu khảo Việt sử thông giám cương mục, coi tri thức lịch sử là nền tảng cho hành động hiện tại. Đặc biệt, thơ đi sứ của ông, nhất là những cuộc xướng họa cùng sứ thần Triều Tiên không chỉ là trò văn nhã mà là cuộc đối thoại tri thức Đông Á giữa khúc quanh hiện đại hóa, khi các quốc gia Á châu đang dò dẫm tìm đường đi mới.

Khi ghép lại những nấc thang quan lộ với lập trường tư tưởng, ta thấy nơi Nguyễn Tư Giản một đường chỉ đỏ xuyên suốt. Trong việc nước, ông luôn tìm đến cái “gốc”: quản trị đê điều có hệ thống, chỉnh đốn bộ máy bằng trách nhiệm giải trình, cổ súy học kỹ nghệ để tự cường và trên hết, kiên quyết không đánh đổi chủ quyền. Trong việc người, ông trọng hiền tài, ghét thói phô trương; trong việc mình, ông thanh liêm, không tích sản, để lại tiếng thơm của một “danh nho quân tử”.

Bia Tiến sĩ tại Văn Miếu Huế (tấm bia thứ 10, bên trái, nhìn ra) vẫn còn khắc tên ông: “Tứ đệ nghị giáp tiến sĩ xuất thân… Nguyễn Văn Phú; Cử nhân; Bắc Ninh tỉnh, Từ Sơn phủ, Đông Ngàn huyện, Hội Phụ tổng, Du Lâm xã; niên canh Nhâm Ngọ, nhị thập tam tuế.” Đó không chỉ là một chứng tích khoa bảng, mà còn là xác tín lịch sử về một tài danh đất Kinh Bắc, người đã để lại dấu ấn rõ nét giữa khúc giao thời của dân tộc.

Nhìn từ hôm nay, tư tưởng của Nguyễn Tư Giản vẫn còn nguyên giá trị. Ông cho thấy rằng đổi mới không nằm ở những khẩu hiệu ồn ào, mà ở chuỗi điều chỉnh kiên trì: vá kẽ hở, lấp lỗ thủng, gây dựng kỷ cương từ những “ốc vít” nhỏ bé, ngân khố, lương bổng, quy trình, đê điều, trường học. Và trên hết, đổi mới phải đặt trên nền một quốc gia biết tự trọng: sẵn sàng học cái mạnh của người để mạnh lên, nhưng không cúi đầu đánh rơi phẩm giá.

Ở nghĩa ấy, Nguyễn Tư Giản là “người canh gác lặng lẽ” của lương tri quốc gia, dám nói điều khó nói, làm điều phải làm, và sẵn sàng lui về thanh đạm khi quyền lực không còn là phương tiện phục vụ điều thiện. Từ câu chuyện đời và nghiệp của Nguyễn Tư Giản, có thể rút ra ba bài học vẫn còn nóng hổi đến hôm nay. Thứ nhất, mọi cải cách muốn bền vững phải khởi đầu từ năng lực quản trị, luật lệ minh bạch, trách nhiệm giải trình và bộ máy gọn tinh. Thứ hai, nội lực, tri thức, kỹ nghệ là điều kiện để hội nhập trong thế chủ động; chỉ “mở cửa” mà không xây nền nội lực sẽ là con đường ngắn nhất để đánh mất mình. Thứ ba, đạo lý là la bàn: mọi thương nghị, giao tiếp quốc tế muốn thành công đều không thể vượt ra khỏi nguyên tắc chủ quyền và lợi ích dân sinh. Đó là những điều Nguyễn Tư Giản đã nghĩ, đã viết và đã sống, trước cả khi chúng trở thành khẩu hiệu của thời nay.

Một thế kỷ rưỡi đã trôi qua, tên tuổi Nguyễn Tư Giản vẫn sáng trong ký ức văn hóa, chính trị Việt Nam. Nhắc đến ông là nhắc đến mẫu hình của một “nhà thực hành cải lương”, cẩn trọng, vững chãi, không phô trương; là nhắc đến một đại thần liêm chính, coi việc đời như món nợ phải trả bằng năng lực và danh dự; là nhắc đến một học giả uyên thâm, để lại nhiều trước tác quý: Thạch Nông thi văn, Yên Thiều thi văn thảo, Trung Châu Quỳnh Dao tập, Tiểu Thuyết Sơn Phòng Cổ Lục…

Những trang viết ấy, cùng các bản tấu về đê điều, các di thuyết về “thông thương” và đào tạo kỹ nghệ, là phần gia sản tinh thần ông để lại cho hậu thế, một gia sản càng đọc càng thấy hợp thời. Bởi lẽ, nó dạy chúng ta đổi mới mà không mất mình, học hỏi mà không tự ti, tiến lên mà không quên cội nguồn.

TS. Phan Thanh Hải

Tham khảo:
1.Vĩnh Cao, Phạm Đức Thành Dũng, Phan Thanh Hải, Nguyễn Phước Hải Trung (2000), Khoa cử và các nhà khoa bảng triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa.

2.Quốc Sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, Bản dịch của Viện Sử học, Nxb Giáo dục.
3.Quốc Sử quán triều Nguyễn (2003), Đại Nam liệt truyện, Bản dịch của Viện Sử học, tập 4, Nxb Thuận Hóa