Chủ Nhật, Tháng mười hai 22, 2024
* Email: bbt.dongnama@gmail.com *Tòa soạn: 0989011688 - 0768908888
spot_img

Nhận diện những biến số lớn của kinh tế thế giới năm 2022



ĐNA -

Kịch bản dự đoán cơ bản đối với năm 2022 của phần lớn các tổ chức dự báo (bao gồm Bloomberg Economic Research) là kinh tế phục hồi mạnh mẽ, lạm phát hạ nhiệt, chính sách tiền tệ thay đổi mô hình nới lỏng khẩn cấp. Tuy nhiên, những nhân tố bất ngờ nào có thể khiến cho dự đoán này trở nên sai lầm?

Omicron – biến thể mới này có khả năng lây lan nhanh (ảnh: Reuters).

Biến thể Omicron và phong tỏa nhiều hơn

Hiện nay vẫn còn quá sớm để đưa ra kết luận về Omicron – biến thể mới này có khả năng lây lan nhanh hơn các biến thể trước đó, nhưng có thể không quá nghiêm trọng. Điều này sẽ giúp thế giới quay lại trạng thái bình thường trước khi bùng phát dịch bệnh, đồng nghĩa với việc sẽ có nhiều nguồn lực tài chính hơn được đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ.

Cùng với việc tái cân bằng chi tiêu, tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu do Bloomberg Economic Research dự đoán sẽ tăng từ 4,7% lên 5,1%.

Tuy nhiên, tình hình có thể không khả quan như vậy. Một biến thể có khả năng lây lan cao hơn và gây nguy hiểm đến tính mạng con người sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế. Ngay cả khi các nước chỉ thực hiện các biện pháp phòng dịch nghiêm ngặt nhất 3 tháng trong năm 2021 (Anh đi theo hướng này), cũng có thể khiến cho tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2022 giảm xuống còn 4,2%.

Trong bối cảnh đó, nhu cầu sẽ yếu hơn, các vấn đề về nguồn cung toàn cầu có thể sẽ tiếp tục kéo dài, bởi vì có nhiều người hơn bị loại khỏi thị trường việc làm và hoạt động logistics sẽ xuất hiện tình trạng hỗn loạn hơn.

Nguy cơ từ lạm phát

Đầu năm 2021, lạm phát cuối năm của Mỹ được dự đoán là 2%. Kết quả tỷ lệ lạm phát lên đến 7%. Lần này, thị trường nhìn chung kỳ vọng tỷ lệ lạm phát của năm 2022 sẽ ở mức tiệm cận mục tiêu vào cuối năm. Tuy nhiên, khả năng đánh giá nhầm lẫn nghiêm trọng vẫn tồn tại.

Omicron chỉ là một trong những nguyên nhân tiềm ẩn. Ở Mỹ, mức lương nhanh chóng tăng cao có thể vẫn sẽ tiếp tục tăng. Tình hình căng thẳng giữa Nga và Ukraine có thể khiến cho giá khí đốt tự nhiên leo thang. Cùng với việc biến đổi khí hậu gây nên ngày càng nhiều các thảm họa thiên nhiên, giá thực phẩm có thể tiếp tục gia tăng.

Không phải mọi rủi ro đều phát triển cùng một hướng. Chẳng hạn, làn sóng dịch bệnh mới có thể tấn công ngành du lịch, làm ảnh hưởng đến giá dầu. Tuy nhiên, ngay cả khi như vậy, ảnh hưởng tổng hợp vẫn có thể là lạm phát đình trệ của nền kinh tế, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và các ngân hàng trung ương khác cần phải đưa ra sự lựa chọn khó khăn.

Fed hướng tới chính sách thắt chặt tiền tệ

Từ chương trình thu hẹp quy mô thu mua tài sản năm 2013 cho đến thị trường chứng khoán lao dốc năm 2018, lịch sử những năm gần đây cho thấy chính sách thắt chặt của Fed luôn gây ra những rắc rối cho thị trường.

Trước mắt, giá tài sản đã ở mức cao, điều này khiến cho rủi ro trở nên cao hơn. Chỉ số S&P 500 tiệm cận ngưỡng “bong bóng”, so với thị trường cho thuê nhà ở, giá bán nhà của Mỹ tăng mạnh phản ánh rủi ro của thị trường bất động sản lớn hơn bất cứ lúc nào kể từ khi xảy ra khủng hoảng cho vay thế chấp dưới chuẩn năm 2007 đến nay.

Bloomberg Economic Research đã mô phỏng tình huống nếu Fed tăng lãi suất 3 lần trong năm 2022, đồng thời ngụ ý lãi suất sẽ tiếp tục tăng trước khi đạt 2,5%, từ đó đẩy cao lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ và chênh lệch tín dụng. Kết quả mô phỏng là nền kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái vào đầu năm 2023.

Việc Fed tăng lãi suất có thể đồng nghĩa với việc các thị trường mới nổi sẽ xuất xuất hiện sự lao dốc. Lãi suất của Mỹ tăng lên thường sẽ giúp hồi sinh đồng USD, đồng thời khiến cho dòng vốn của các nền kinh tế đang phát triển tháo chạy ra bên ngoài, đôi khi còn kích hoạt khủng hoảng tiền tệ.

Một số quốc gia dễ bị tổn thương hơn những quốc gia khác. Năm 2013 và năm 2018, các nước chịu ảnh hưởng lớn nhất là Argentina, Nam Phi và Thổ Nhĩ Kỳ. Theo một loạt chỉ số do Bloomberg Economic Research tổng hợp, ba nước này cộng thêm Ai Cập, Brazil sẽ là 5 nền kinh tế rủi ro nhất trong năm 2022.

Nợ của Saudi Arabia và Nga rất thấp, thặng dư tài khoản vãng lai dồi dào, nên rủi ro dòng vốn tháo chạy của những nền kinh tế này dường như nhỏ nhất trong số các thị trường mới nổi.

Kinh tế Trung Quốc giảm tốc

Quý III/2021, tăng trưởng kinh tế Trung Quốc rơi vào đình trệ. Khủng hoảng nợ của “người khổng lồ” bất động sản Evergrande, phong tỏa phòng dịch liên tục và thiếu hụt năng lượng khiến cho tốc độ tăng trưởng kinh tế năm giảm 0,8%, thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng 6% của Trung Quốc mà Ngân hàng thế giới (WB) đã dự báo.

Mặc dù khủng hoảng năng lượng sẽ được xoa dịu trong năm 2022, tuy nhiên hai vấn đề khác có thể sẽ không như vậy.

Chính sách Zero Covid-19 trong phòng dịch của Trung Quốc có thể đồng nghĩa với việc biến thể Omicron sẽ dẫn đến tình trạng phong tỏa thành phố nhiều hơn. Trong bối cảnh nhu cầu suy yếu và huy động vốn chịu sự hạn chế, bất động sản và xây dựng chiếm khoảng 25% tỷ trọng nền kinh tế Trung Quốc có thể sẽ tiếp tục lao dốc.

Giả thiết cơ bản của Bloomberg Economic Research là kinh tế Trung Quốc sẽ tăng trưởng 5,7% trong năm 2022.

Nếu tốc độ tăng trưởng giảm xuống 3% sẽ gây nên phản ứng dây chuyền toàn cầu, các nước xuất khẩu hàng hóa chiến lược sẽ thiếu đi bên mua chủ yếu, đồng thời có thể phá hủy kế hoạch thắt chặt của Fed, giống như ảnh hưởng gây nên từ sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Trung Quốc năm 2015.

Biến động tại chính trường châu Âu

Các nhà lãnh đạo châu Âu đoàn kết nhất trí ủng hộ các dự án châu Âu, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) kiểm soát tốt chi phí vay vốn của chính phủ, giúp châu Âu vượt qua dịch Covid-19. Tuy nhiên, trong một năm tới, hai điều này có thể sẽ hỗn loạn.

Cuộc bầu cử Tổng thống Italy vào tháng 1/2022 có thể lật đổ liên minh cầm quyền mong manh. Tháng 4/2022, Pháp sẽ tổ chức bầu cử, Tổng thống Emmanuel Macron đối diện với thách thức từ cánh hữu. Nếu các nhân vật theo trường phái “chủ nghĩa hoài nghi châu Âu” ở các nền kinh tế chủ chốt trong Khu vực sử dụng đồng Euro (Eurozone) lên cầm quyền.

Điều này có thể sẽ phá vỡ sự bình yên của thị trường trái phiếu châu Âu, đồng thời tước đoạt sự hỗ trợ chính trị cần thiết của ECB.

Giả sử chênh lệch lợi suất trái phiếu chính phủ nới rộng 300 điểm phần trăm, thì tình hình sẽ giống như cuộc khủng hoảng nợ 10 năm trước.

Mô hình của Bloomberg Economic Research cho thấy, đến cuối năm 2022, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Eurozone có thể giảm hơn 4%, điều này sẽ khiến cho khu vực này rơi vào suy thoái, đồng thời khơi lại nỗi lo về triển vọng tồn tại của Eurozone.

Tương lai của chính sách tài khóa

Chính phủ các nước đã đầu tư nguồn lực tài chính lớn để hỗ người lao động và doanh nghiệp trong dịch bệnh. Hiện nay, nhiều nước muốn thắt chặt ngân sách. Theo ước tính của UBS, mức sụt giảm chi tiêu công của năm 2022 ước đạt 2,5% GDP toàn cầu, hơn 5 lần các biện pháp thắt chặt tài khóa khiến cho nền kinh tế chậm phục hồi sau khủng hoảng tài chính năm 2008.

Tuy nhiên, cũng có ngoại lệ. Chính phủ mới của Nhật Bản đã công bố một kế hoạch kích thích kỷ lục. Chính phủ Trung Quốc cũng ám chỉ sẽ chuyển sang mô hình nới lỏng để hỗ trợ nền kinh tế sau khi thắt chặt tài khóa dài hạn.

Ảnh hưởng Brexit

Đàm phán về Nghị định thư Bắc Ireland giữa Anh và Liên minh châu Âu (EU) chắc chắn sẽ kéo dài đến năm 2022. Việc đạt được đồng thuận sẽ rất khó khăn.

Nếu đàm phán đổ vỡ sẽ như thế nào? Theo các sự kiện gây ra bởi Brexit trước đây, sự bất trắc này sẽ tác động đến hoạt động đầu tư kinh doanh và kéo đồng Bảng Anh đi xuống, từ đó đẩy lạm phát lên cao và làm xói mòn thu nhập thực tế của người dân.

Nếu giữa Anh và EU bùng phát chiến tranh thương mại toàn diện, những khó khăn về thuế quan và logistics có thể sẽ đẩy giá cả lên cao.

Kinh tế toàn cầu cũng có thể bị ảnh hưởng từ những vấn đề hậu Brexit. (Nguồn: Financial Times)

Rủi ro địa chính trị

Bất cứ sự leo thang nào của tình hình eo biển Đài Loan (Trung Quốc) đều có thể sẽ cuốn các nước lớn chủ chốt khác trên thế giới vào cuộc, bao gồm Mỹ.

Chiến tranh siêu cường là tình huống tồi tệ nhất, các kịch bản giả định khác bao gồm các lệnh trừng phạt (đóng băng quan hệ Mỹ-Trung), cũng như sự sụp đổ của ngành công nghiệp bán dẫn Đài Loan. Ngành công nghiệp chip của Đài Loan có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đối với nhiều ngành nghề trên toàn cầu, từ điện thoại thông minh cho đến ô tô.

Ở các khu vực khác, tháng 10/2022, Brazil sẽ tổ chức bầu cử, khi đó nước này có thể vẫn đang trong thời kỳ biến động của dịch bệnh và suy thoái kinh tế. Có rất nhiều vấn đề có thể xảy ra, song nếu một ứng cử viên cam kết kiểm soát nghiêm ngặt hơn chi tiêu công lên nắm quyền, có thể sẽ giúp đồng Real hồi sinh một phần.

Ở Thổ Nhĩ Kỳ, phe đối lập đang thúc đẩy bầu cử sớm 1 năm, từ năm 2023 chuyển sang năm 2022. Tỷ giá hối đoái Thổ Nhĩ Kỳ sụt giảm mạnh được cho là do chính sách kinh tế của Tổng thống Recep Erdogan.

Biến động giá cả thực phẩm

Trong lịch sử, nạn đói luôn là một trong những nguyên nhân dẫn đến biến động xã hội. Dịch Covid-19 và thời tiết khắc nghiệt cùng thúc đẩy giá thực phẩm toàn cầu lên mức cao kỷ lục và có thể tiếp tục diễn ra trong năm tới.

Cú sốc lần trước xảy ra vào năm 2011, giá thực phẩm leo thang dẫn đến làn sóng phản đối của người dân, đặc biệt là ở khu vực Trung Đông. Hiện nay, nhiều quốc gia ở Trung Đông vẫn có nguy cơ rơi vào tình trạng này.

Sudan, Yemen và Lebanon cũng đang chịu sức ép, tình hình ở Ai Cập chỉ được cải thiện đôi chút. Các làn sóng người dân phản đối dâng cao có thể khó xảy ra song rủi ro biến động khu vực ở phạm vi lớn hơn là điều có thật.a

Triển vọng cho năm 2022

Không phải tất cả các kịch bản đều rủi ro. Chẳng hạn, chính sách tài khóa của Mỹ có thể mở rộng hơn so với hiện tại, giúp nền kinh tế tránh xa bờ vực của “vách đá tài khóa” (Chi tiêu chính phủ giảm mạnh đột ngột), đồng thời thúc đẩy tăng trưởng.

Trên phạm vi toàn cầu, nhờ các biện pháp kích thích trong thời kỳ dịch bệnh và tiết kiệm chi tiêu trong thời kỳ phong tỏa, mức tiết kiệm của các gia đình lên đến hàng nghìn tỷ USD. Nếu tốc độ chi tiêu tiêu dùng của họ nhanh hơn kỳ vọng, tăng trưởng kinh tế sẽ tăng tốc.

Ở Trung Quốc, năng lượng xanh và nhà ở giá cả hợp lý đã được đưa vào trong Quy hoạch “5 năm lần thứ 14” có thể thúc đẩy hoạt động đầu tư.

Trong khi đó, Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) đi vào hiệu lực cũng có thể hồi sinh xuất khẩu của khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

 

(Nguồn: Báo Quốc tế).