Thứ Hai, Tháng 8 25, 2025
* Email: bbt.dongnama@gmail.com *Tòa soạn: 0989011688 - 0768908888
spot_img

Nhận diện và phản bác quan điểm sai trái về Cánh mạng Tháng Tám năm 1945



ĐNA -

Thắng lợi vĩ đại nhất của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX chính là giành chính quyền bằng cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Tám mươi năm đã trôi qua, nhưng ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục soi sáng con đường phát triển của dân tộc Việt Nam và cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa và kỷ nguyên số, các thế lực thù địch vẫn không ngừng gia tăng hoạt động xuyên tạc, phủ nhận những giá trị to lớn ấy. Do đó, việc nhận diện, vạch rõ bản chất và kiên quyết phản bác những luận điệu sai trái, thù địch trở thành nhiệm vụ cấp thiết trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Trước hết, cần khẳng định ý nghĩa lịch sử to lớn của Cách mạng Tháng Tám là cuộc cách mạng đã đập tan ách thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật và xóa bỏ chế độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm trên đất nước ta. Trong bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định đanh thép: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ cộng hòa”.1

Sau thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám, ngày 2/9/1945, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức ra đời. Đây là sự kiện lịch sử trọng đại, đánh dấu một mốc son chói lọi trong tiến trình phát triển của dân tộc. Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân Việt Nam có một nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân. Nhà nước dân chủ nhân dân mang bản chất cách mạng, giai cấp công nhân, phục vụ lợi ích của toàn thể nhân dân lao động, điều chưa từng có trong suốt hàng nghìn năm lịch sử dân tộc. Đồng thời, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã mở ra một thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh. Từ đây, “nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”2, khẳng định nền độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và vị thế quốc gia trên trường quốc tế.

Một trong những giá trị lịch sử sâu sắc nhất mà Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mang lại chính là sự đổi đời vĩ đại của nhân dân Việt Nam. Từ thân phận nô lệ, bị áp bức, người dân trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh và tương lai của chính mình. Nói về ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám, Tổng Bí thư Lê Duẩn cho rằng: “Thắng lợi mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc ta, một cuộc đổi đời chưa từng có đối với mỗi người Việt Nam…”3. Có thể khẳng định, Cách mạng Tháng Tám không chỉ lật đổ một chế độ chính trị cũ kỹ, mà còn đánh dấu sự thay đổi toàn diện, sâu sắc về tư thế, vị thế, quyền lực và giá trị con người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử mấy nghìn năm.

Đầu thế kỷ XX, Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra một trang mới trong lịch sử nhân loại, khẳng định xu thế phát triển tất yếu và khai sinh thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Nói về ý nghĩa vĩ đại ấy, Nguyễn Ái Quốc viết: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”. Đến giữa thế kỷ XX, Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam đã hiện thực hóa những giá trị của Cách mạng Tháng Mười trong điều kiện một nước thuộc địa ở châu Á. Đồng thời, thắng lợi ấy đã truyền đi ngọn lửa giải phóng dân tộc, trở thành “ngọn đuốc mở đường cho các dân tộc đứng lên giành lại quyền làm người”, góp phần thức tỉnh và cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.

Cụ thể, ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam, phong trào giải phóng dân tộc đã bùng nổ mạnh mẽ trên thế giới: chỉ sau Việt Nam ít tuần, nhân dân Lào giành chính quyền năm 1945; nhân dân Ấn Độ giành độc lập năm 1947; nhân dân Miến Điện giành độc lập năm 1948… Tinh thần đấu tranh kiên cường của nhân dân Việt Nam còn trở thành nguồn cổ vũ to lớn đối với phong trào giải phóng ở châu Phi. Nhiều quốc gia Bắc Phi lần lượt giành độc lập, như Ai Cập năm 1952, Algiêri năm 1962; riêng trong năm 1960 đã có tới 17 nước châu Phi tuyên bố thoát khỏi ách thống trị thực dân, được gọi là “Năm châu Phi”. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám vì thế không chỉ mang ý nghĩa dân tộc mà còn góp phần mở ra thời kỳ cáo chung của chủ nghĩa thực dân cũ, báo hiệu sự sụp đổ tất yếu của hệ thống thuộc địa trên phạm vi toàn cầu vào giữa thế kỷ XX.

Hơn hết, nhân tố có ý nghĩa quyết định làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 chính là vai trò lãnh đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Sự lãnh đạo ấy được thể hiện ở tính đúng đắn, sáng tạo trong việc đề ra chủ trương, đường lối; nghệ thuật tạo và chớp thời cơ khởi nghĩa; trong xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang; cũng như trong việc hình thành các căn cứ địa cách mạng. Sau này, khi nhìn lại thắng lợi ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”5.

Giá trị thời đại và ý nghĩa lịch sử của Cách mạng Tháng Tám là sự thật hiển nhiên, không một thế lực nào có thể phủ nhận. Tuy nhiên, cả trong quá khứ lẫn hiện tại, các thế lực thù địch vẫn luôn tìm cách bóp méo, xuyên tạc những giá trị đó. Những luận điệu sai trái ấy không chỉ nhằm phủ nhận lịch sử, mà còn để lại nhiều hệ lụy nguy hiểm: làm xói mòn niềm tin của thế hệ trẻ vào truyền thống dân tộc; gieo rắc hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, về tính chính nghĩa của cuộc cách mạng; từ đó, từng bước phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc và cổ súy cho lối sống thực dụng, lệch lạc về giá trị.

Về đối tượng, các thế lực xuyên tạc, phủ nhận giá trị Cách mạng Tháng Tám có thể quy về ba nhóm chính. Thứ nhất, các tổ chức phản động lưu vong, trực tiếp chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam như Việt Tân, “Chính phủ Việt Nam tự do” lưu vong, Hội Nhà báo độc lập Việt Nam… Thứ hai, một số cá nhân trong nước, đội lốt “nhà nghiên cứu lịch sử”, “phản biện học thuật” hay núp bóng “dân chủ”, điển hình như Trần Gia Phụng, Nguyễn Gia Kiểng, Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Hữu Lễ, Trần Khải Thanh Thủy, Nguyễn Hữu Vinh, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Quang A, Nguyễn Tiến Trung, Lê Nguyễn Hương Trà… Thứ ba, một số kênh truyền thông phương Tây thiếu thiện chí, thường xuyên phát tán luận điệu sai trái, tiêu biểu là các trang Dân Luận, Tiếng Dân, Dân làm báo (danlambao), Quan làm báo (quanlambao), cùng với BBC Tiếng Việt, RFA…

Về hình thức, nếu trước đây hoạt động xuyên tạc chủ yếu diễn ra trên sách báo thì ngày nay các thế lực thù địch đã mở rộng sang nhiều kênh truyền thông mới, đa dạng và tinh vi hơn. Cụ thể:
Một là, qua mạng xã hội (Facebook, YouTube, X/Twitter, TikTok, Instagram…). Các đối tượng lợi dụng trang cá nhân, fanpage, kênh YouTube để đăng tải video, bài viết, livestream với nội dung xuyên tạc, bóp méo lịch sử. Chúng triệt để khai thác thuật toán lan truyền (gợi ý video, hashtag, bình luận, chia sẻ) để tiếp cận người dùng, đặc biệt là giới trẻ. Thủ đoạn thường dùng là lồng ghép nội dung xuyên tạc trong các video có tiêu đề gây sốc, giật gân như “Sự thật về Cách mạng Tháng Tám”, “Việt Minh chỉ lấp khoảng trống quyền lực?”, đồng thời khoác vỏ bọc “trung lập, khách quan” nhằm đánh tráo khái niệm, dẫn dắt người xem phủ nhận giá trị cách mạng.

Hai là, qua diễn đàn, blog và trang tin giả mạo. Một số blog cá nhân hoặc trang giả danh “nghiên cứu lịch sử”, “phản biện xã hội” đăng tải bài viết xuyên tạc với ngôn ngữ học thuật giả hiệu để đánh lừa người đọc. Các diễn đàn hải ngoại và kênh phản động như Dân Luận, Việt Tân, BBC Tiếng Việt, RFA, VOA Tiếng Việt… thường xuyên đăng tải bài sai lệch về Cách mạng Tháng Tám. Để tăng tính thuyết phục, các đối tượng này mượn danh những “nhà sử học” tự xưng hoặc trích dẫn tài liệu nước ngoài nhưng cắt xén, bóp méo ngữ cảnh theo dụng ý riêng.

Ba là, qua nội dung số: Meme, infographic, truyện tranh, video hoạt hình: Thời gian gần đây, trên không gian mạng xuất hiện khá phổ biến những meme (ảnh châm biếm), video hoạt hình, truyện tranh lịch sử “phiên bản mới” với nội dung bóp méo, chế nhạo, gây cười. Lợi thế của hình thức phát tán này là truyền tải thông điệp xuyên tạc dưới dạng ẩn dụ, trào phúng để tránh bị kiểm duyệt. Đánh vào tâm lý giải trí, hiếu kỳ của người dùng mạng xã hội. Sử dụng hình thức ngắn gọn, dễ chia sẻ, dễ tiếp cận người trẻ.

Bốn là, qua công cụ trí tuệ nhân tạo và tài khoản ảo: Sử dụng AI để tạo nội dung xuyên tạc tự động: video deepfake, bài viết có vẻ “trí tuệ”, chatbot có sẵn tư tưởng lệch lạc. Với mạng lưới tài khoản giả mạo, nick ảo chuyên đi tăng tương tác ảo, bình luận định hướng dư luận, tạo cảm giác “nhiều người cùng nghi ngờ”. Tạo “trend” trên TikTok, Twitter… để biến thông tin giả thành điều mà nhiều người coi là thật. Hình thức này khai thác triệt để hiệu ứng “bầy đàn”, “đám đông” để người dùng dễ tin khi thấy nhiều tài khoản cùng chia sẻ quan điểm.

Năm là, qua sách báo, phim ảnh và tài liệu số. Một số ấn phẩm xuất bản hải ngoại, video “tài liệu lịch sử” trên YouTube, phim ngắn trên Netflix, TikTok… lồng ghép yếu tố xuyên tạc Cách mạng Tháng Tám. Những sản phẩm này tác động âm thầm nhưng nguy hiểm, đặc biệt đối với học sinh, sinh viên khi tiếp cận nội dung “tự học lịch sử” mà thiếu sự kiểm chứng.

Từ ngày 14 đến 18/8/1945, tổng khởi nghĩa giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng miền Bắc, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và các thị xã Bắc Giang, Hải Phòng, Hà Tĩnh, Hội An.

Về nội dung, các thế lực thù địch tập trung phủ nhận trên một số vấn đề cốt lõi.
Thứ nhất là sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta. Chúng rêu rao rằng Cách mạng Tháng Tám chỉ là một sự “ăn may”, lợi dụng “khoảng trống quyền lực” khi phát xít Nhật đầu hàng và thực dân Pháp chưa kịp trở lại, nên Việt Minh mới có thể “tranh thủ” giành chính quyền. Từ quan điểm sai trái ấy, chúng xuyên tạc rằng: “Cách mạng là của quần chúng, không cần đến vai trò của Đảng”; hoặc “nhiều lực lượng khác nhau cùng tham gia, không thể gán công cho riêng Đảng”. Nguy hiểm hơn, chúng bóp méo bản chất cách mạng, cho rằng đây không phải là một cuộc cách mạng thực sự mà chỉ là “cuộc cướp chính quyền” của một nhóm người, không đại diện cho toàn dân tộc; là một biến động tạm thời chứ không phải sự kiện lịch sử có ý nghĩa lâu dài. Một số luận điệu khác tiếp tục phủ nhận tính toàn quốc và tính chính nghĩa của Cách mạng Tháng Tám khi cố tình hạ thấp, rằng “chỉ vài địa phương khởi nghĩa thành công”, hoặc quy chụp Việt Minh “áp đặt bằng bạo lực”, chứ không dựa trên sự đồng thuận và sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân.

Theo học thuyết Mác – Lênin, không có phong trào cách mạng nào có thể thành công nếu không có sự lãnh đạo của một tổ chức chính trị tiên phong. Thắng lợi Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945 là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, có tổ chức, có sách lược và chiến lược đúng đắn dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Để có được thành công của Cách mạng Tháng Tám, nhân dân Việt Nam phải được rèn luyện, thử thách qua các cao trào 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945. Đúng như đồng chí Trường Chinh từng khẳng định: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nhưng quần chúng phải được đảng cách mạng chân chính động viên, tổ chức và lãnh đạo thì mới phát huy được tác dụng của mình”6. Ngoài ra, thời điểm tháng 8/1945, cụ thể ngày 14/8/1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng quân Đồng minh, là một “tình thế thuận lợi” cho Việt Nam có thể giành chính quyền. Tuy nhiên, như V.I. Lênin từng chỉ ra, người mác xít tin rằng không thể có cách mạng nếu không có tình thế cách mạng, nhưng không phải bất cứ một tình thế cách mạng nào cũng dẫn đến cách mạng. Hơn nữa, lúc này, cơ hội được chia đều cho tất cả các nước ở Châu Á nhưng tại sao Việt Nam là một trong số ít nước giành được độc lập? Trả lời câu hỏi trên, Thiếu tá Archimedes L.A Patti, thời điểm năm 1945 là Trưởng ban Đông Dương của OSS (Cơ quan Phục vụ Chiến lược Mỹ, tiền thân của CIA), Trưởng phái bộ tiền trạm của quân đội Mỹ, cho rằng: “Trong điều kiện của tháng 8/1945, ông Hồ đã biến được những tiềm năng hạn chế của mình thành thắng lợi trong một câu chuyện thật giống như thần thoại. Nhưng chắc chắn ông Hồ sẽ không thể thành công nếu như Đảng Cộng sản Đông Dương của ông đã không được tổ chức và chuẩn bị tốt cho việc giành chính quyền. Nhiều năm chuẩn bị không phải là vô bổ”7.

Mặt khác, Tổng khởi nghĩa Tháng Tám không phải là một chuỗi hành động đơn lẻ, thiếu sự lan tỏa và đồng loạt trên cả nước như các đối tượng tuyên truyền. Trên cơ sở nhận định thời cơ giành độc lập đã tới, Hội nghị toàn quốc của Đảng (13 – 15/8/1945) quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc và phát động toàn dân tổng khởi nghĩa. Chủ trương này được Đại hội quốc dân nhiệt liệt tán thành. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chí Minh – Chủ tịch Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, hơn 20 triệu đồng bào đã nhất tề vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Trong vòng hai tuần (từ ngày 14 đến ngày 30/8/1945), chính quyền đã về tay nhân dân từ nông thôn đến thành thị, từ đồng bằng đến miền núi. Tính chất nhanh chóng, đồng loạt và gần như không đổ máu là kết quả của sự chuẩn bị kỹ lưỡng về chính trị, lực lượng và tinh thần trong toàn dân tộc, chứ không thể là chuỗi hành động đơn lẻ. Nhờ bản lĩnh chính trị vững vàng lại được thử thách qua thực tiễn đấu tranh, tuy ít đảng viên nhưng chính Đảng Cộng sản Đông Dương, chứ không phải một đảng nào khác (mặc dù lúc này ở Việt Nam có rất nhiều đảng phái đối lập với Đảng Cộng sản Đông Dương), thành công trong lãnh đạo dân tộc giành độc lập. Sau này, trong một bài nói chuyện, Bác nhớ lại: “Lúc đầu, Đảng có rất ít đảng viên và lại thường bị thực dân Pháp bắt bớ, bỏ tù. Nhưng Đảng ta vẫn tiến lên. Tới Cách mạng Tháng Tám, số đảng viên xấp xỉ 5.000 người, trong đó có một số đang bị giam ở các nhà tù đế quốc. Non 5.000 đảng viên mà tổ chức lãnh đạo 24 triệu đồng bào khởi nghĩa, cách mạng cả nước thành công”8.

Thứ hai, tính chính danh của chính quyền mới và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Các thế lực thù địch cho rằng, sau Cách mạng Tháng Tám không có gì thay đổi, chế độ xã hội ở Việt Nam chẳng qua chỉ thay từ “vua trị” sang “đảng trị”; “Chính phủ Hồ Chí Minh không do dân bầu”, do không chính danh nên không có quốc gia hay tổ chức quốc tế nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa…

Thấu hiểu vấn đề này, đồng thời để khẳng định sức mạnh trên thực tế cũng như tạo cơ sở pháp lý cho chính quyền mới, ngày 6/1/1946, Chính phủ lâm thời tổ chức Tổng tuyển cử trên cả nước để bầu Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 2/3/1946, Quốc hội khóa I họp phiên đầu tiên bầu Chính phủ chính thức do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngày 9/11/1946, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cùng với cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, chính quyền nhân dân ở các địa phương cũng được kiện toàn. Hàng loạt tổ chức chính trị – xã hội được thành lập nhằm đoàn kết những “người Việt Nam yêu nước”. Như vậy, Hồ Chí Minh không “tự ý nắm quyền”, cũng như không “tự nhiên mà làm Chủ tịch”. Người được nhân dân yêu mến, tin tưởng, “ủy thác” giao trọng trách. Đây là biểu hiện của tính chính danh cao nhất. Vì sao năm 1945, Việt Nam tuyên bố độc lập nhưng chưa có nước nào công nhận? Đó là do sự phức tạp của tình hình thế giới sau Chiến tranh thế giới lần thứ II và trong nội bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Hoàn toàn không phải do chính quyền mới và Chủ tịch Hồ Chí Minh không chính danh.

Thứ ba, tính chính nghĩa, giá trị tốt đẹp của Cách mạng Tháng Tám. Họ cho rằng, sau Cách mạng Tháng Tám “người dân cũng không được gì”; “Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sai lầm lịch sử”, “là nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam”, “nếu không có Cách mạng Tháng Tám, nước ta đã giàu mạnh từ lâu”, “nếu không có Cách mạng tháng Tám, Việt Nam đã phát triển theo hướng tự do, dân chủ như Hàn Quốc hay Nhật Bản”…

Rõ ràng, trong lịch sử hàng mấy nghìn năm, nhân dân Việt Nam đã phải tiến hành hàng chục cuộc kháng chiến để bảo vệ độc lập dân tộc và “quyền tự quyết” của mình. Do đó, hơn ai hết người dân Việt Nam luôn thấu hiểu giá trị của hòa bình, không muốn có chiến tranh. Tuy nhiên, “dù rằng đời ta thích hoa hồng” nhưng “kẻ thù buộc ta ôm cây súng”. Lý do nhân dân Việt Nam phải tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rất rõ trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946):

“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ
”9.

Sau 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam mong muốn các nước “công nhận và tôn trọng các quyền cơ bản của nhân dân ba nước Đông Dương: độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước, không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi nước”10 nhưng đế quốc Mỹ phá vỡ những quy định của Hiệp định Giơnevơ, thống trị miền Nam, âm mưu chia cắt lâu dài nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân hai miền lại phải tiến hành 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Giành chính quyền tại Bắc Bộ phủ (Hà Nội) ngày 19/8/1945.

Tóm lại, các lực lượng xuyên tạc, phủ nhận Cách mạng Tháng Tám không chỉ đông đảo mà còn tinh vi trong thủ đoạn, đa dạng trong hình thức, khiến nhiều khi khó nhận diện bằng cảm tính thông thường. Song, sự thật lịch sử không thể bị che mờ: Cách mạng Tháng Tám mãi là biểu tượng sáng ngời của khát vọng độc lập, tự do, của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; là dấu mốc lịch sử làm thay đổi vận mệnh đất nước và góp phần thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc trên phạm vi toàn cầu. Bảo vệ giá trị của Cách mạng Tháng Tám cũng chính là bảo vệ sự thật, bảo vệ chân lý, bảo vệ lý tưởng cách mạng và tương lai của dân tộc. Trong bối cảnh hiện nay, nhiệm vụ đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch không chỉ là trách nhiệm riêng của ngành tuyên giáo hay giới sử học, mà cần trở thành nhận thức và hành động tự giác của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Chỉ bằng cách đó, chúng ta mới có thể giữ vững nền tảng tư tưởng, củng cố niềm tin xã hội và tiếp tục phát huy những giá trị bất diệt của Cách mạng Tháng Tám trên hành trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

ThS.Hồ Thức Tài, TS.Bùi Nghĩa, TS.Nguyễn Tôn Phương Du/Học viện Chính trị khu vực II

Tài liệu tham khảo
1, 2. 9.Hồ Chí Minh Toàn tập, t. 4 (1945-1946), Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, H, 2011, tr. 3, 3, 534.
3.Lê Duẩn, Tiến lên dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, Nxb Sự thật, H, 1980, tr. 13.
4.Hồ Chí Minh Toàn tập, t. 15 (1966-1969), Nbx Chính trị quốc gia – Sự thật, H, 2011, tr. 387.
5.Hồ Chí Minh Toàn tập, t. 7 (1951-1952), Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, H, 2011, tr. 25.
6.Trường Chinh, Cách mạng Tháng Tám – Một sự kiện vĩ đại của thế kỷ XX, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2005, tr. 9.
7.Archimedes L.A.Patti, Why Vietnam (Tại sao Việt Nam) (tái bản lần thứ nhất; bản dịch Lê Trọng Nghĩa), Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2001, tr. 395.
8.Hồ Chí Minh Toàn tập, t. 12 (1959-1960), Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, H, 2011, tr. 331-332.
10. https://baocaovien.vn/nhung-noi-dung-chinh-va-y-nghia-lich-su-cua-hiep-dinh-gionevo/4659.html