Thứ Năm, Tháng 12 4, 2025
* Email: bbt.dongnama@gmail.com *Tòa soạn: 0989011688 - 0768908888
spot_img

“Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh – Gáo nước lạnh dội lên đầu Người lính



ĐNA -

Tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh”của nhà văn Bảo Ninh khắc họa nỗi đau và những ký ức ám ảnh của Kiên, người lính Quân đội Nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tuy nhiên, tác phẩm từng gây tranh cãi gay gắt khi bị cho là “bôi nhọ sự nghiệp chống Mỹ của nhân dân ta”, “xúc phạm những người đang sống và cả những người đã hy sinh vì Tổ quốc”. Có ý kiến cho rằng, “tác giả Nỗi buồn chiến tranh dường như đã khai tử chính ngòi bút của mình khi coi những người ngã xuống là vật hy sinh mù quáng cho cuồng vọng của con người.”

Bằng sự bôi nhọ sự nghiệp chống Mỹ của nhân dân ta, Bảo Ninh không chỉ xúc phạm đến những người đang sống…

Bảo Ninh tên thật là Hoàng Ấu Phương, quê xã Bảo Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Ông là nhà văn Quân đội, nhập ngũ năm 1969 từng trực tiếp tham gia chiến đấu trên chiến trường miền Nam trước năm 1975; Chiến đấu tại mặt trận B3, Tây Nguyên, tại tiểu đoàn 5, trung đoàn 24, sư đoàn 10.

“Nỗi buồn chiến tranh” ra đời năm 1987, xuất bản lần đầu tiên ở Việt Nam năm 1990, là một trong ba tiểu thuyết được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải trong năm 1991, tuy nhiên sau đó giải thưởng đã bị thu hồi do sự phản đối của công chúng. Cuốn tiểu thuyết này gặp nhiều chỉ trích do tác giả hư cấu nhiều tình tiết xúc phạm, bịa đặt về người lính Quân đội Nhân dân Việt Nam và những nhận xét mang tính bôi nhọ cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc Việt Nam. Năm 1993, “Nỗi buồn chiến tranh đã được dịch ra tiếng Anh với tên “The Sorrow of War” sau đó được chuyển ngữ tại nhiều quốc gia trên thế giới.

“Nỗi buồn chiến tranh” kể về cuộc đời của Kiên, một người lính trở về từ chiến tranh mang theo những ký ức đau thương ám ảnh, mất mát về thể xác, nỗi đau tinh thần sau chiến tranh. Tiểu thuyết mở đầu bằng một không gian mờ mịt, lạnh giá. Kiên nhìn ra màn mưa xối xả, xám xịt nhớ đến anh em đồng đội qua những kí ức hãi hùng bom nổ, đạn rơi xoáy vào tâm trí. Kí ức đau buồn cứ dặt vặt trong tâm tưởng thôi thúc Kiên cầm bút chép lại một đoạn đời đặc biệt. Tâm lý thường trực của Kiên không can trường như bao người lính khác mà luôn trong trạng thái mơ màng, đăm chiêu, âu sầu với những cảm xúc tiêu cực hồn xiêu phách lạc, ý thức mờ mịt, lú lẫn, cô quạnh.

Trong đầu Kiên không phải là những trận chiến khốc liệt, đầy hy sinh quả cảm của người lính mà luôn hiện lên những tang thương, tàn khốc. Rời xa cuộc chiến tranh, Kiên không như bao đồng đội khác trở về cuộc sống đời thường đoàn tụ bên người thân, xóm làng mà Kiên chọn lối sống khác người. Kiên tiếc nuối cuộc đời tuổi trẻ trong chiến tranh, để giờ đây anh sống như một kiếp tạm. Con tim của Kiên trở nên thờ ơ, vô cảm trước cuộc sống của đồng loại và những giá trị hy sinh mất mát của đồng đội, đồng chí của mình. Kiên thể hiện qua từng trang tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” bằng những kí ức đứt gãy, bi ai, xiêu vẹo, nhạt nhòa.

“Nỗi buồn chiến tranh” là vấn đề muôn thuở. Đó không chỉ là vết thương về thể xác mà còn là nỗi đau tinh thần của hàng triệu gia đình Việt Nam khi con em mình nằm lại chiến trường; khi hàng triệu người lính vẫn còn quằn quại nỗi đau vết thương trên thể xác, khi hàng triệu người lính dâng hiến tuổi thanh xuân mình cho Tổ quốc sau hơn nửa thế kỷ vẫn là “Liệt sĩ chưa biết tên” hoặc chưa tìm thấy mộ. Sự nhân văn ở chỗ cả dân tộc Việt Nam đã biết cách vượt qua “Nỗi đau của chiến tranh” để sát cánh bên nhau tạo nên bức trường thành vững chắc, sức mạnh của cả một dân tộc để kết thúc chiến tranh thắng lợi, đánh đuổi Đế quốc Mỹ xâm lược ra khỏi bờ cõi, thống nhất đất nước, đem lại hòa bình, hạnh phúc cho nhân dân.

Cái đáng trân trọng ở chỗ không như Kiên, khi kết thúc chiến tranh, những người lính vẫn phát huy được tố chất cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, hàng triệu cựu chiến binh tàn mà không phế, họ luôn tự hào đã đóng góp một phần thân thể của mình để đem lại độc lập tự do cho Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân.

Cùng là tiểu thuyết chiến tranh, “Mưa Đỏ” của Nhà Văn Quân đội Chu Lai như một thiên anh hùng ca về một cuộc chiến tranh chống Mỹ, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, đã khơi dậy lòng yêu nước, tình đoàn kết dân tộc, hàn gắn nỗi đau sau chiến tranh thì “Nỗi đau chiến tranh” của Bảo Ninh như một gáo nước lạnh dội lên đầu các tướng lĩnh và các Cựu chiến binh về cách nhìn tiêu cực, khắc họa lại một cuộc chiến tranh tàn khốc, đau buồn; một trường ca bi ai, một gam màu tối trong nền văn học nghệ thuật dân tộc Việt Nam.

Tư tưởng của Kiên, cách nhìn của Kiên, cách sống của Kiên là tiêu cực, là nhu nhược không thể hiện đúng bản chất của người lính Cụ Hồ, Vì vậy, khi “Nỗi buồn chiến tranh” của tác giả Bảo Ninh được Hội Nhà Văn Việt Nam trao giải, không chỉ bây giờ gặp phải sự chỉ trích dữ dội của dư luận đặc biệt là các tướng lĩnh, Cựu chiến binh những nhân chứng sống trong cuộc chiến tranh chống Mỹ vẫn còn đó. Tạp chí Cộng sản có bài phê phán:

“Bằng sự bôi nhọ sự nghiệp chống Mỹ của nhân dân ta, Bảo Ninh không chỉ xúc phạm đến những người đang sống… Tác giả Nỗi buồn chiến tranh còn muốn giết chết hẳn những người đã vĩnh viễn nằm xuống để cho “dân tộc quyết sinh”… Đó là sự khai tử của một ngòi bút quá nhẫn tâm đã coi họ là vật hy sinh mù quáng cho những cuồng vọng của con người”. Nên nhớ, trước sự phản đối dữ dội của dư luận, Ban Lãnh đạo Hội Nhà Văn Việt Nam khi đó đã phải tự phê bình bằng văn bản, đọc trước toàn Đại hội lần thứ V. Riêng Nhà văn Vũ Tú Nam, lãnh đạo cao nhất của Hội, khi trả lời phỏng vấn đã nhận trách nhiệm: “Trách nhiệm thuộc về toàn thể Ban Chấp hành, nhưng tôi là người chịu trách nhiệm trước nhất. Sự phê phán của công luận sau đó là chính đáng”.

Một góc tầng trệt nhà Bảo Ninh, một chiều mùa đông 1996. Từ trái sang: Nguyễn Thanh Sơn, Bảo Ninh, Phạm Xuân Nguyên (nhóm 72) và Nguyễn Quang Lập (bọ Lập).

Tôi không trách Bảo Ninh, một người lính đã vào sinh ra tử ở chiến trường miền Nam trong giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Đế quốc Mỹ xâm lược. Có lẽ chính sự tàn khốc, đẫm máu của chiến trường và những mất mát, hy sinh của đồng đội đã khiến tâm hồn anh trở nên chai sạn, buộc phải viết về quãng thời gian “buồn nhất” của đời mình bằng những ngôn từ rời rạc, nặng nề, đầy tuyệt vọng.

“Nỗi buồn chiến tranh” không chỉ là tiếng thở dài của một người lính trở về sau chiến tranh, mà còn là nỗi tuyệt vọng không lối thoát của một con người mang danh cựu chiến binh giữa cõi đời tạm. Những trang viết ấy đã khuấy động dư luận, chạm đến lòng tự trọng và tình cảm của nhiều người như gáo nước lạnh dội lên ký ức và niềm tin của đồng đội, đồng chí.

Điều đáng sợ ở Bảo Ninh không chỉ nằm ở nội dung cuốn sách, mà còn ở sự im lặng của anh: không biện bạch, không phản hồi, chỉ lặng lẽ để cuốn sách ra đời ai hiểu thì hiểu, ai phán xét thì mặc. Bởi thế, người thương anh có, kẻ giận anh cũng nhiều. Có người cho rằng anh phản bội, bạc nhược; có người lại thương cảm cho một tâm hồn tổn thương sâu sắc. Sự tranh cãi đó khiến nhiều lần tác phẩm được đề cử giải thưởng Nhà nước rồi lại bị loại bỏ ngay từ vòng đầu.

Bảo Ninh chọn im lặng, ẩn mình sau những ly rượu, mái tóc bạc trắng và đôi mắt vô hồn, như chính nhân vật Kiên mà anh đã gửi gắm bản thân qua từng trang sách. Hội Nhà văn Việt Nam từng vinh danh tác phẩm như một tiểu thuyết có “giá trị văn học – nghệ thuật”, song với nhiều người, đó lại là cuốn sách chứa đựng những góc nhìn gây tổn thương, thậm chí từng bị cấm lưu hành. Sau đó, giải thưởng được thu hồi trong lặng lẽ.

Tôi không trách anh, người lính trở về trong nỗi trầm cảm và ký ức đau thương đến mức tâm hồn hóa đá. Nhưng điều đáng trách là những kẻ bất chấp dư luận, cố tình tôn vinh một tác phẩm mà nhiều người cho là xúc phạm. Như Tạp chí Cộng sản từng nhận định: “Tác phẩm đã bôi nhọ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc, xúc phạm những người đang sống và làm tổn thương cả những người đã ngã xuống vì Tổ quốc.”

Phan Trung Can