Chuyển đổi số không chỉ là xu thế mà còn là yêu cầu chiến lược, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Trong tiến trình hiện đại hóa Quân đội nhân dân Việt Nam, đội ngũ giảng viên lý luận chính trị tại các nhà trường quân đội giữ vai trò nòng cốt, góp phần củng cố nền tảng tư tưởng của Đảng, bồi dưỡng bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức cho đội ngũ sĩ quan tương lai.
Bài viết tập trung phân tích những yêu cầu và thách thức mới do chuyển đổi số đặt ra đối với đội ngũ giảng viên lý luận chính trị trong quân đội. Trên cơ sở đó, đề xuất một hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm phát triển năng lực số chuyên biệt cho lực lượng này. Các giải pháp xoay quanh ba trụ cột chính: nâng cao nhận thức và tầm nhìn lãnh đạo; xây dựng khung năng lực số chuyên biệt; hoàn thiện cơ chế và môi trường văn hóa số quân sự. Mục tiêu là hình thành đội ngũ giảng viên lý luận chính trị thực sự trở thành những “chiến sĩ tư tưởng” sắc bén trên không gian mạng.

Kỷ nguyên số, với sự bùng nổ của các công nghệ nền tảng như Trí tuệ nhân tạo (AI), Dữ liệu lớn (Big Data) và Internet vạn vật (IoT), đang tạo ra những chuyển biến mang tính cách mạng trên phạm vi toàn cầu. Tại Việt Nam, chuyển đổi số đã được Đảng ta xác định là một trong những đột phá chiến lược để thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước, tinh thần này được thể hiện rõ trong các văn kiện và nghị quyết quan trọng của Đảng (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021). Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về “Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”, trong đó nhấn mạnh ưu tiên chuyển đổi số ở các lĩnh vực chiến lược, đặc biệt là quốc phòng và an ninh.
Trong Quân đội, chuyển đổi số được xem là điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”. Các nhà trường quân đội – nơi trực tiếp đào tạo đội ngũ cán bộ kế cận – cần đóng vai trò hạt nhân trong tiến trình này. Đặc biệt, đội ngũ giảng viên lý luận chính trị, những người đảm nhiệm nhiệm vụ truyền thụ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng, cần được phát triển tương xứng với yêu cầu mới nhằm giữ vững “trận địa tư tưởng” trong không gian số.
Bài viết tập trung làm rõ ba nội dung cốt lõi: Vai trò mới của đội ngũ giảng viên lý luận chính trị trong tiến trình chuyển đổi số của Quân đội; Những thách thức đặt ra đối với nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong không gian mạng và đề xuất các giải pháp chiến lược nhằm phát triển đội ngũ giảng viên LLCT, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục quốc phòng và an ninh trong bối cảnh kỷ nguyên số.

Yêu cầu và vai trò mới của giảng viên lý luận chính trị trong kỷ nguyên số
Trong bối cảnh Chuyển đổi số, vai trò của giảng viên lý luận chính trị tại các nhà trường Quân đội không chỉ là người truyền đạt kiến thức mà phải trở thành người kiến tạo tư duy số, chiến binh tư tưởng số cho đội ngũ sĩ quan trẻ.
Thứ nhất, nâng cao nhận thức lý luận về công nghệ số
Giảng viên lý luận chính trị phải là người đầu tiên lý giải được mối quan hệ biện chứng giữa công nghệ và xã hội, giúp học viên xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận khoa học trong môi trường số.
Lý giải công nghệ dưới góc độ lý luận: Giảng viên cần giúp học viên nhận thức được bản chất của công nghệ số (đặc biệt là AI và dữ liệu) như một lực lượng sản xuất mới và là yếu tố cấu thành quan trọng trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng của Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều này tránh việc “thần thánh hóa” công nghệ hoặc rơi vào chủ nghĩa thực dụng kỹ thuật số.
Củng cố niềm tin và định hướng chính trị: Trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, giảng viên củng cố vững chắc niềm tin cộng sản chủ nghĩa và bản lĩnh chính trị cho học viên. Như V.I.Lênin đã khẳng định “chủ nghĩa Mác có ba nguồn gốc cơ bản – triết học, kinh tế chính trị, và chủ nghĩa xã hội khoa học”6. Giảng viên cần ứng dụng phương pháp biện chứng duy vật để phân tích và đánh giá thời cơ, thách thức của Chuyển đổi số trong lĩnh vực quân sự, từ đó làm vững chắc lập trường tư tưởng cho người sĩ quan.
Thứ hai, vai trò nòng cốt bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng
Chuyển đổi số đã mở rộng không gian đấu tranh tư tưởng sang lĩnh vực mạng, nơi các thế lực thù địch lợi dụng công nghệ cao (Deepfake, AI) để xuyên tạc, chống phá đường lối của Đảng, Nhà nước và Quân đội ta. Do đó, vai trò đấu tranh tư tưởng của giảng viên lý luận chính trị trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Thực hiện Nghị quyết 35-NQ/TW: Đây là nhiệm vụ trọng tâm được xác định trong Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018 của Bộ Chính trị “về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”2. Giảng viên lý luận chính trị phải là lực lượng xung kích, có khả năng:
Nhận diện công nghệ xuyên tạc: Trang bị kiến thức và kỹ năng nhận biết các thủ đoạn lợi dụng công nghệ số để lồng ghép thông tin sai sự thật, làm sai lệch lịch sử hoặc phủ nhận các thành tựu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Sản xuất nội dung tích cực: Chủ động sáng tạo và lan tỏa các nội dung chính thống, hấp dẫn về lý luận, lịch sử, văn hóa truyền thống và phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong môi trường số, góp phần xây dựng môi trường văn hóa số quân sự lành mạnh.
Thứ ba, đổi mới sư phạm và nghiên cứu khoa học với công cụ số
Để thu hút thế hệ học viên “bản địa số” (Digital Native), giảng viên lý luận chính trị bắt buộc phải chuyển đổi phương pháp dạy học.
Cá nhân hóa và Tương tác số: Tích hợp tri thức số vào các môn học lý luận chính trị thông qua việc thiết kế bài giảng trực tuyến, bài giảng điện tử trên các nền tảng số (LMS). Sử dụng AI và phân tích dữ liệu để cá nhân hóa lộ trình học tập, khuyến khích tính tích cực, chủ động của học viên.
Ứng dụng công cụ phân tích dữ liệu: Chuyển đổi trọng tâm nghiên cứu sang các chủ đề gắn liền với Chuyển đổi số và Quốc phòng như: An ninh phi truyền thống, Đạo đức AI trong quân sự, Quản trị dữ liệu quốc phòng. Sử dụng các công cụ phân tích dữ liệu lớn (Big Data) và khai phá văn bản (Text Mining) để nghiên cứu xu hướng dư luận xã hội và kịp thời đề xuất các giải pháp định hướng tư tưởng.
Thứ tư, kiến tạo phẩm chất và đạo đức cách mạng trong môi trường số
Công nghệ số và hội nhập quốc tế mang đến thách thức lớn về lối sống thực dụng và sự xói mòn đạo đức. Giảng viên lý luận chính trị có trách nhiệm củng cố đạo đức, lối sống, nhân cách chuẩn mực cho học viên, kế thừa và phát huy tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cần, kiệm, liêm, chính .
Giáo dục đạo đức số: Rèn luyện bản lĩnh chính trị và củng cố lập trường tư tưởng trước luồng thông tin hỗn tạp. Giáo dục đạo đức cách mạng, xây dựng lối sống lành mạnh, đấu tranh phản bác lối sống thực dụng, tiêu cực trên không gian mạng, hướng đến hình thành một sĩ quan gương mẫu cả trong đời thực và trên môi trường số.

Hệ thống giải pháp chiến lược phát triển đội ngũ giảng viên lý luận chính trị ở các nhà trường Quân đội trong công tác chuyển đổi số
Để phát huy tối đa vai trò của đội ngũ giảng viên lý luận chính trị trong công tác Chuyển đổi số, cần triển khai đồng bộ, có hệ thống các giải pháp chiến lược.
Một là, nhóm giải pháp về nhận thức, trách nhiệm và tầm nhìn Lãnh đạo
Xác định ưu tiên chính trị: Cấp ủy, chỉ huy các cấp ở các nhà trường quân đội phải nhận thức rõ rằng phát triển năng lực số cho giảng viên lý luận chính trị là nhiệm vụ chính trị trọng yếu. Phải xem đây là một tiêu chí hàng đầu trong đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ và công tác xây dựng Đảng bộ.
Xây dựng kế hoạch hành động cụ thể: Ban hành các chương trình, kế hoạch Chuyển đổi số chuyên biệt, xác định các chỉ tiêu định lượng (KPI) về tỷ lệ giảng viên đạt chuẩn kỹ năng số, tỷ lệ bài giảng số hóa và số lượng công trình nghiên cứu ứng dụng dữ liệu lớn.
Tăng cường tuyên truyền: Thường xuyên tổ chức tuyên truyền, phổ biến, quán triệt Nghị quyết của Đảng và Quân ủy Trung ương về Chuyển đổi số, làm rõ vị trí chiến lược của đội ngũ giảng viên lý luận chính trị. Tổ chức đánh giá định kỳ, biểu dương, khen thưởng các điển hình tiên tiến trong ứng dụng công nghệ số.
Hai là, nhóm giải pháp về đào tạo và xây dựng năng lực số chuyên biệt
Đây là giải pháp cốt lõi nhằm nâng cao năng lực Chuyển đổi số của đội ngũ giảng viên. Thiết kế khung năng lực số đặc thù: Xây dựng một khung năng lực số riêng cho giảng viên lý luận chính trị, tập trung vào ba khối kỹ năng:
Kỹ năng lý luận số (Digital-Ideology Skill): Năng lực phân tích, tổng hợp tri thức lý luận trong bối cảnh thông tin số.
Kỹ năng nghiên cứu dữ liệu xã hội (Social Data Research): Khả năng sử dụng các công cụ phân tích dữ liệu để nắm bắt, dự báo xu hướng tư tưởng.
Kỹ năng tác chiến tư tưởng mạng (Cyber-Ideological Warfare): Khả năng sản xuất nội dung số chất lượng cao, quản trị kênh thông tin chính thống và phản ứng nhanh với các luận điệu sai trái.
Đổi mới công tác bồi dưỡng: Định kỳ tổ chức các chương trình đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chuyên sâu về ứng dụng AI (như công cụ thiết kế, biên tập), sử dụng các nền tảng học tập trực tuyến (LMS) tiên tiến và kỹ năng bảo mật thông tin.
Hợp tác quốc tế và liên ngành: Đẩy mạnh hợp tác đào tạo quốc tế, giao lưu, học hỏi kinh nghiệm ứng dụng công nghệ số trong giáo dục chính trị tại các cơ sở đào tạo quân sự hàng đầu thế giới. Tăng cường phối hợp với các giảng viên khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin trong nội bộ nhà trường để cùng xây dựng các mô hình mô phỏng số.
Ba là, nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách và xây dựng môi trường
Hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo động lực: Ban hành các văn bản, quy định cụ thể về sử dụng công nghệ số trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Cần có chính sách hỗ trợ, đầu tư cụ thể vào công cụ công nghệ số cho từng giảng viên. Đặc biệt, phải xây dựng cơ chế công nhận và khen thưởng xứng đáng đối với các sáng kiến, công trình nghiên cứu, ứng dụng công nghệ số, cũng như các bài viết đấu tranh phản bác luận điệu sai trái, thù địch trên không gian mạng. Coi đây là tiêu chí quan trọng trong đánh giá thành tích.
Xây dựng môi trường văn hóa số quân sự: Môi trường văn hóa số là nền tảng để phát triển toàn diện năng lực số của quân nhân. Cần:
Đảm bảo hạ tầng số đồng bộ: Đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở vật chất kỹ thuật số: phòng học thông minh, hệ thống mạng tốc độ cao, và đặc biệt là xây dựng Thư viện số (Digital Library) chuyên ngành khoa học xã hội nhân văn quân sự lớn, được số hóa và cập nhật kịp thời.
Chuẩn hóa hành vi số: Xây dựng các quy tắc ứng xử, đạo đức trong môi trường số cho quân nhân, đảm bảo sự dịch chuyển các giá trị phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” vào trong môi trường số một cách lành mạnh, kỷ luật và chính trực.
Bốn là, phát huy nhân tố chủ quan của đội ngũ giảng viên
Giải pháp về cơ chế, hạ tầng chỉ phát huy hiệu quả khi có sự nỗ lực và trách nhiệm cao nhất từ chính mỗi giảng viên. Đây là biện pháp quan trọng hàng đầu. Giảng viên lý luận chính trị cần:
Chủ động “Tự chuyển đổi”: Mỗi giảng viên phải tự coi mình là một “quân nhân số” và “chuyên gia tự học”, tích cực rèn luyện, phát triển năng lực số, chủ động cập nhật tri thức mới, kỹ năng mới, và thái độ đúng đắn về Chuyển đổi số vào quá trình giảng dạy, nghiên cứu khoa học.
Sáng tạo trong tác chiến mạng: Áp dụng tư duy logic và cấu trúc của công nghệ để hệ thống hóa kiến thức lý luận. Sử dụng kỹ năng phân tích dữ liệu để dự đoán sớm các kịch bản tấn công tư tưởng trên không gian mạng, từ đó xây dựng các kịch bản phản ứng và giảng dạy phòng ngừa hiệu quả.
Phát triển đội ngũ giảng viên lý luận chính trị ở các nhà trường Quân đội trong công tác Chuyển đổi số hiện nay là một yêu cầu mang tính chiến lược, cấp bách. Đội ngũ này là nhân tố then chốt quyết định chất lượng giáo dục, đào tạo sĩ quan và là lực lượng cốt lõi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong môi trường mạng phức tạp. Việc triển khai đồng bộ hệ thống các giải pháp về nhận thức, năng lực và cơ chế sẽ giúp đội ngũ giảng viên lý luận chính trị thực sự làm chủ công nghệ số, biến công nghệ thành công cụ sắc bén trong nghiên cứu, giảng dạy và đấu tranh tư tưởng, góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, vững vàng về chính trị trong kỷ nguyên mới.
TS.Vũ Cảnh Lâm/Khoa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Học viện Kỹ thuật Quân sự, Bộ Quốc phòng
Tài liệu tham khảo
1. Ban chấp hành Trung ương Đảng (2024), Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024 “về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018 của Bộ Chính trị “về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, T1.
4. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
5. Nguyễn Phú Trọng (2021), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam”, Báo Nhân dân số ra ngày 17/5/2021.
6. V.I.Lênin (1980), “Ba nguồn gốc ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác”, V.I.Lênin toàn tập, tập 23, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, tr.57.


