Từ sau Đổi mới 1986, giáo dục và đào tạo được xác định là quốc sách hàng đầu, tạo nền tảng hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bước vào kỷ nguyên Cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số, yêu cầu phát triển nhân lực giáo dục càng cấp thiết. Giai đoạn 2019-2024, Bình Phước đã đầu tư hạ tầng, mở rộng đào tạo nghề, ứng dụng công nghệ thông tin để thích ứng đổi mới. Năm 2025, khi sáp nhập vào Đồng Nai, những kinh nghiệm này trở thành một phần quan trọng trong tiến trình phát triển chung của vùng Đông Nam Bộ.

Cơ sở lý luận
Nguồn nhân lực giáo dục, xét trên phương diện lịch sử, không chỉ bao gồm đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý, mà còn là học sinh, sinh viên – những thế hệ lao động tương lai. Phát triển nguồn nhân lực giáo dục vì thế được coi là một “quá trình lịch sử lâu dài”, gắn liền với tiến trình hiện đại hóa xã hội. Lý luận Mác – Lênin về vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất, cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh về “trồng người”, đã trở thành nền tảng để nhận diện bản chất của giáo dục trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Toàn cầu hóa, chuyển đổi số và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – công nghệ không chỉ tác động sâu rộng đến kinh tế, mà còn buộc hệ thống giáo dục phải đổi mới để đáp ứng những yêu cầu mới của thị trường lao động (UNESCO, 2020). Đặt trong tiến trình lịch sử địa phương, Bình Phước – được tái lập năm 1997 – khởi đầu với nền tảng kinh tế – xã hội còn thấp và hệ thống hạ tầng giáo dục hạn chế. Trong hơn hai thập kỷ phát triển, tỉnh vừa phải tập trung giải quyết nhiệm vụ phổ cập giáo dục cơ bản, vừa đối diện với yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để phục vụ mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đặc biệt, từ năm 2019, khi Chính phủ ban hành Chương trình Chuyển đổi số quốc gia, Bình Phước đã chủ động xây dựng và triển khai nhiều đề án chuyển đổi số, trong đó giáo dục được xác định là một trong những lĩnh vực trọng tâm, đóng vai trò then chốt trong việc chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
Thực trạng phát triển nguồn nhân lực giáo dục Bình Phước (2019-2024)
Trong những năm gần đây, Bình Phước ghi dấu ấn bằng sự tăng trưởng kinh tế ấn tượng. Năm 2024, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) tăng 9,32%, vượt kế hoạch (8–8,5%), đứng thứ 11 cả nước và dẫn đầu khu vực Đông Nam Bộ hai năm liên tiếp (People’s Committee of Binh Phuoc Province, 2024). GRDP bình quân đầu người đạt 108,40 triệu đồng, trong khi thu hút đầu tư nước ngoài tiếp tục khởi sắc với 35 dự án mới, tổng vốn đăng ký 639 triệu USD; lũy kế đến cuối năm 2024, tỉnh có 439 dự án FDI với tổng vốn đăng ký 5,271 triệu USD. Những con số này không chỉ phản ánh sức hút đầu tư mà còn mở ra cơ hội việc làm, đặt ra nhu cầu ngày càng cao về nguồn nhân lực chất lượng cao. Song song với đó, Bình Phước cũng khẳng định vị thế tiên phong trong chuyển đổi số khi liên tiếp đạt nhiều giải thưởng trong nước và quốc tế: năm 2022, thành phố Đồng Xoài được trao giải “Thành phố điều hành, quản lý thông minh”; năm 2023, Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh được vinh danh “Cơ quan nhà nước chuyển đổi số xuất sắc”; đến năm 2024, Bình Phước vượt ra ngoài phạm vi quốc gia khi nhận giải thưởng “Xây dựng chính quyền số xuất sắc” của Tổ chức Công nghệ điện toán Châu Á – Thái Bình Dương (ASOCIO).
Cơ cấu kinh tế của Bình Phước những năm gần đây có sự chuyển dịch tích cực, đúng hướng: ngành công nghiệp – xây dựng chiếm gần 46%, nông – lâm nghiệp và thủy sản giảm còn khoảng 23%, dịch vụ chiếm khoảng 31%. Kim ngạch xuất khẩu đạt 4,6 tỷ USD (People’s Committee of Binh Phuoc Province, 2024), phản ánh năng lực cạnh tranh kinh tế ngày càng được nâng cao. Sự dịch chuyển này tác động trực tiếp đến yêu cầu phát triển nguồn nhân lực giáo dục. Khi công nghiệp và dịch vụ mở rộng, nhu cầu về lao động có kỹ năng, năng lực số và trình độ học vấn cao tăng mạnh, buộc hệ thống giáo dục phải đa dạng hóa đào tạo – từ giáo dục phổ thông, nghề nghiệp đến các chương trình bồi dưỡng kỹ năng số. Đặc biệt, sự gia tăng các dự án FDI và mở rộng sản xuất công nghiệp đòi hỏi nhân lực thành thạo ngoại ngữ, công nghệ, có tư duy phản biện và khả năng thích ứng nhanh, tạo áp lực lớn lên chất lượng đội ngũ giáo viên cũng như cơ sở vật chất giáo dục. Song song, việc Bình Phước liên tục được vinh danh trong lĩnh vực chuyển đổi số đã thúc đẩy các trường học triển khai mô hình lớp học thông minh, học trực tuyến và quản trị giáo dục số, góp phần nâng cao năng lực đào tạo của tỉnh.
Như vậy, tăng trưởng GRDP, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thành tựu chuyển đổi số không chỉ củng cố tiềm lực tài chính – xã hội của Bình Phước, mà còn trở thành động lực quan trọng thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực giáo dục.
Năm 2023, chỉ số phát triển con người (HDI) của Bình Phước đạt 0,71, thấp hơn mức trung bình cả nước (0,75) và đứng sau các trung tâm công nghiệp – dịch vụ trong vùng như Đồng Nai (0,78) hay Bình Dương (0,76). Thực tế này cho thấy dù tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, nhưng chất lượng phát triển con người – đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục và y tế – vẫn chưa theo kịp. Bên cạnh đó, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều tại Bình Phước vẫn ở mức 1,7% trong năm 2023, cao hơn đáng kể so với mức trung bình Đông Nam Bộ (0,3%) và chênh lệch lớn so với Bình Dương (0,1%) hay TP. Hồ Chí Minh (0,0%). Đây là thách thức không nhỏ, bởi nghèo đa chiều không chỉ phản ánh hạn chế về thu nhập, mà còn gắn trực tiếp với cơ hội tiếp cận giáo dục, cơ sở vật chất trường lớp và các dịch vụ xã hội cơ bản.
Quy mô mạng lưới trường học của Bình Phước đã có bước phát triển đáng kể. Tính đến năm 2024, toàn tỉnh có 267 trường phổ thông, gồm 122 trường tiểu học, 65 trường trung học cơ sở, 27 trường trung học phổ thông, 43 trường liên cấp tiểu học – THCS và 10 trường liên cấp THCS. Tổng số học sinh phổ thông đạt 212.378 em, trong đó bậc tiểu học có 103.726 em, THCS 73.496 em và THPT 35.156 em. Đáng chú ý, học sinh dân tộc thiểu số chiếm 37.890 em, tương đương 17,8% tổng số, nhưng tỷ lệ này giảm mạnh ở bậc THPT, chỉ còn 2.263 em. Điều này phản ánh thực trạng bỏ học sớm hoặc khó khăn trong việc tiếp cận giáo dục bậc cao hơn của học sinh dân tộc thiểu số.
Năm 2024, toàn tỉnh Bình Phước có 10.221 giáo viên phổ thông, gồm 4.777 giáo viên tiểu học, 3.514 giáo viên THCS và 1.930 giáo viên THPT. Trong đó, giáo viên là người dân tộc thiểu số chỉ chiếm khoảng 6,7% tổng số, chưa tương xứng với tỷ lệ học sinh dân tộc thiểu số gần 18%. Về cơ sở vật chất, tỷ lệ phòng học kiên cố năm học 2024–2025 đạt 88,91%, thấp hơn mức trung bình vùng Đông Nam Bộ (96,77%) và kém xa TP. Hồ Chí Minh (99,97%). Điều này cho thấy vẫn còn tồn tại nhiều phòng học bán kiên cố, thậm chí tạm bợ, chủ yếu tập trung ở khu vực dân tộc thiểu số và vùng biên giới, nơi vốn chịu nhiều hạn chế trong tiếp cận điều kiện giáo dục chất lượng.
Trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, số liệu năm 2023 cho thấy Bình Phước có 880 giáo viên (trong đó 239 thuộc cơ sở công lập) và tuyển mới 27.679 học sinh – sinh viên. Tuy nhiên, chỉ có 1.801 người theo học hệ trung cấp và 487 người theo học hệ cao đẳng, cho thấy sự thiếu gắn kết giữa đào tạo nghề và nhu cầu nhân lực chất lượng cao. Trên thị trường lao động, tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo chỉ đạt 20%, thấp hơn đáng kể so với mức trung bình vùng Đông Nam Bộ (28,95%) và TP. Hồ Chí Minh (36,01%). Đồng thời, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 2,79%, cao hơn mức trung bình cả nước (2,28%), trong khi tỷ lệ thiếu việc làm lên tới 3,50% – cao nhất trong vùng (so với 1,15% ở Bình Dương và 1,55% ở Tây Ninh). Những con số này cho thấy nguồn nhân lực của Bình Phước vẫn bộc lộ nhiều bất cập: lao động phổ thông dư thừa, trong khi lao động có tay nghề, kỹ năng số và trình độ chuyên môn lại thiếu hụt.
Thách thức và nguyên nhân
Thực trạng trên cho thấy Bình Phước đang đối diện với nhiều thách thức trong phát triển nguồn nhân lực giáo dục trước yêu cầu đổi mới khoa học – công nghệ và chuyển đổi số. Trước hết, cơ sở vật chất và hạ tầng công nghệ thông tin vẫn chưa đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa giáo dục. Sự chênh lệch giữa vùng trung tâm và vùng biên giới, giữa học sinh người Kinh và học sinh dân tộc thiểu số, tạo ra bất bình đẳng đáng kể trong tiếp cận cơ hội học tập. Tiếp đến, chất lượng đội ngũ giáo viên còn thiếu đồng đều; tỷ lệ giáo viên dân tộc thiểu số thấp, năng lực ứng dụng công nghệ thông tin của giáo viên chưa theo kịp yêu cầu dạy học trực tuyến và triển khai mô hình lớp học thông minh. Song song đó, tỷ lệ phòng học kiên cố vẫn ở mức thấp, hạ tầng số yếu, đặc biệt tại khu vực nông thôn và miền núi. Đại dịch COVID-19 giai đoạn 2020–2021 càng làm lộ rõ những hạn chế này, khi nhiều học sinh không đủ điều kiện học trực tuyến, dẫn đến gián đoạn việc học và gia tăng nguy cơ bỏ học.
Hơn nữa, trước áp lực hội nhập quốc tế và yêu cầu của Cách mạng công nghiệp 4.0, giáo dục Bình Phước vẫn gặp nhiều khó khăn trong triển khai các mô hình dạy học thông minh, giáo dục STEM và thúc đẩy học tập suốt đời – những xu thế đang lan tỏa mạnh mẽ trong cả nước. Những thách thức này cho thấy, phát triển nguồn nhân lực giáo dục ở Bình Phước giai đoạn 2019–2024 vừa mang tính đặc thù của một tỉnh biên giới, vừa phản ánh những hạn chế phổ biến của nền giáo dục Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và chuyển đổi số.
Nguyên nhân của tình trạng này mang tính lịch sử – xã hội rõ nét. Sau khi tái lập năm 1997 với xuất phát điểm kinh tế – xã hội thấp, Bình Phước chưa thể dành nguồn lực lớn cho đầu tư giáo dục. Cơ cấu kinh tế nông – lâm nghiệp truyền thống chiếm tỷ trọng lớn, làm hạn chế nhu cầu đối với đào tạo nghề chất lượng cao. Đồng thời, chính sách thu hút đầu tư tập trung nhiều vào công nghiệp, nhưng lại thiếu sự gắn kết với đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ, dẫn đến khoảng cách giữa cung và cầu lao động. Bên cạnh đó, quá trình chuyển đổi số diễn ra nhanh nhưng thiếu đồng bộ, khiến một bộ phận giáo viên và học sinh gặp khó khăn trong việc thích ứng.

Bài học kinh nghiệm rút ra
Từ thực tiễn phát triển nguồn nhân lực giáo dục giai đoạn 2019–2024, Bình Phước đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm có giá trị.
Thứ nhất, phát triển giáo dục phải gắn chặt với điều kiện lịch sử – xã hội của địa phương. Với đặc thù là tỉnh biên giới, có đông đồng bào dân tộc thiểu số và sự chênh lệch phát triển giữa các vùng, Bình Phước đã chứng minh rằng chỉ khi gắn giáo dục với công tác xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội và nâng cao dân trí thì nguồn nhân lực mới có thể phát triển bền vững.
Thứ hai, đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ thông tin và ứng dụng chuyển đổi số trong giáo dục cần song hành với việc bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý. Bài học từ đại dịch COVID-19 cho thấy, khi năng lực số của giáo viên còn hạn chế, học sinh thiếu thiết bị học tập, thì chủ trương dạy học trực tuyến khó đạt hiệu quả.
Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực giáo dục không thể chỉ dựa vào ngân sách Nhà nước, mà cần đẩy mạnh xã hội hóa, huy động sự tham gia của doanh nghiệp, phụ huynh và cộng đồng. Sự kết nối này tạo ra đồng thuận xã hội và lan tỏa tích cực trong nâng cao chất lượng giáo dục.
Thứ tư, trong bối cảnh hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0, Bình Phước rút ra kinh nghiệm phải chủ động lựa chọn mô hình giáo dục phù hợp với điều kiện thực tế, tránh rập khuôn máy móc, đồng thời coi trọng đào tạo nghề, giáo dục STEM và định hướng học tập suốt đời cho thế hệ trẻ.
Thứ năm, để phát triển nguồn nhân lực giáo dục hiệu quả, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách trung ương và sự năng động, sáng tạo trong cách thức triển khai của chính quyền địa phương.
Khi Bình Phước sáp nhập vào tỉnh Đồng Nai, quá trình phát triển nguồn nhân lực giáo dục bước sang một giai đoạn mới, đòi hỏi sự đồng bộ, liên kết và tầm nhìn chiến lược dài hạn. Sự hợp nhất này mở ra cơ hội khai thác hiệu quả hơn các nguồn lực về giáo dục, hạ tầng, kinh nghiệm quản lý và hệ thống đào tạo nghề của Đồng Nai, qua đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục tại vùng đất mới. Cùng với lợi thế về cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, tốc độ tăng trưởng GRDP nhanh, sức hút FDI và thành tựu nổi bật trong chuyển đổi số, nguồn nhân lực giáo dục của Bình Phước – nay thuộc Đồng Nai – có cơ hội được nâng cao về trình độ chuyên môn, kỹ năng số và khả năng thích ứng với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, quá trình hợp nhất cũng đặt ra nhiều thách thức. Sự chênh lệch về chỉ số phát triển con người, tỷ lệ nghèo đa chiều, năng lực lao động qua đào tạo và cơ sở vật chất giáo dục giữa Bình Phước và các khu vực phát triển hơn của Đồng Nai có nguy cơ tạo ra khoảng cách nội bộ, nếu thiếu chiến lược phân bổ nguồn lực hợp lý. Do đó, hệ thống giáo dục cần được cải thiện một cách đồng bộ, với trọng tâm là nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, mở rộng và gắn kết giáo dục nghề nghiệp với nhu cầu thực tế của thị trường lao động, đồng thời đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong quản lý cũng như giảng dạy.
Nhìn chung, việc sáp nhập Bình Phước vào Đồng Nai là một sự kiện mang tính lịch sử, mở ra cơ hội tăng cường tiềm lực giáo dục, nâng cao năng lực phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu đổi mới khoa học – công nghệ và chuyển đổi số. Thành công trong giai đoạn tới phụ thuộc vào khả năng hoạch định chiến lược giáo dục – kinh tế đồng bộ, đảm bảo công bằng xã hội, thu hẹp khoảng cách phát triển và tận dụng tối đa lợi thế kinh tế – kỹ thuật của toàn tỉnh.
Nguyễn Thị Hương/NCS Khoa Lịch sử, Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia TP.HCM
Tài liệu tham khảo
1.Department of Statistics – Ministry of Finance. (2025). https://www.nso.gov.vn/giao-duc/
2.Binh Phuoc Provincial Statistical Office. (2023). Niên giám thống kê Bình Phước năm 2024 [Binh Phuoc Statistical Yearbook 2024]. Statistical Publishing House.
3.General Statistics Office. (2025). Niên giám thống kê Việt Nam 2024 [Vietnam Statistical Yearbook 2024]. Statistical Publishing House. Hanoi.
4.UNESCO. (2020). Education in a post-COVID world: Nine ideas for public action. Paris: United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization.
5.UNICEF Vietnam. (2021). Báo cáo phân tích tình hình trẻ em tại Việt Nam 2021 [Situation analysis of children in Vietnam 2021]. UNICEF Vietnam. Hanoi.
6.People’s Committee of Binh Phuoc Province. (2024). Báo cáo số 391/BC-UBND: Tình hình kinh tế – xã hội năm 2024 và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2025 [Report No. 391/BC-UBND: Socio-economic situation in 2024 and socio-economic development plan for 2025]. Archived document.
7.World Bank. (2020). Vietnam’s human capital development in the digital era. Washington, DC: The World Bank. https://doi.org/10.1596/34567.