Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam là một cuộc chiến tranh chính nghĩa, tuyệt nhiên không thể bị xem là “nội chiến”. Chân lý ấy không thể bị phủ nhận hay diễn giải lại dưới bất kỳ hình thức hay danh nghĩa văn chương nào. Thế nhưng, “Nỗi buồn chiến tranh”, tác phẩm từng vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ Tạp chí Cộng sản, nhiều nhà văn lão thành, cựu chiến binh và đông đảo người yêu nước suốt từ năm 1995 đến 2025 nay lại được vinh danh. Sự đảo chiều này đặt ra một câu hỏi nghiêm túc: Ai đúng, ai sai trong việc nhìn nhận lịch sử, và ai phải chịu trách nhiệm cho cách đánh giá ấy?

Phản bác quan điểm bênh vực “Nỗi buồn chiến tranh”
Thời gian gần đây, trên mạng xã hội xuất hiện một số bài viết, tiêu biểu là của Thanh Hằng và Nguyễn Thúy Quỳnh tìm cách biện minh cho những nội dung gây tranh cãi trong tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh. Không dừng lại ở đó, các tác giả này còn sử dụng những ngôn từ thiếu chuẩn mực, quy chụp các ý kiến phản biện của độc giả, đặc biệt là cựu chiến binh, là “chống Đảng”, “chống lại sự đổi mới”. Đây là lập luận thiếu cơ sở khoa học, mang tính đánh tráo khái niệm và tiềm ẩn nguy cơ lệch lạc về tư tưởng, cần được phản bác một cách nghiêm túc, khách quan và có trách nhiệm.
Không thể nhân danh “đổi mới tư duy” để bóp méo lịch sử
Đổi mới không đồng nghĩa với “cởi trói cho xuyên tạc lịch sử”. Đảng ta luôn chủ trương đổi mới, cởi mở, tôn trọng và khuyến khích sáng tạo trong văn học, nghệ thuật. Tuy nhiên, cần khẳng định dứt khoát rằng, đổi mới không có nghĩa là lật sử; cởi mở không có nghĩa là bóp méo, xuyên tạc bản chất lịch sử; và sáng tạo không thể là cái cớ để phủ nhận chân lý cách mạng.
Những ai lợi dụng danh nghĩa “văn học – nghệ thuật” để lồng ghép quan điểm cá nhân cực đoan, đánh tráo khái niệm lịch sử, phủ nhận vai trò, lý tưởng và sự hy sinh của hàng triệu liệt sĩ, thì đó không còn là sáng tạo, mà là biểu hiện của “diễn biến hòa bình” trong lĩnh vực tư tưởng – văn hóa.
Mọi hoạt động sáng tạo văn học – nghệ thuật, dù dưới hình thức nào, khi đề cập đến những sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc, đặc biệt là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đều không thể tách rời trách nhiệm chính trị, xã hội và lịch sử. Những ai núp bóng các khái niệm như “đổi mới”, “đa chiều”, “nhân bản” để xuyên tạc cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc Việt Nam, biến nó thành “nội chiến”, làm lu mờ ranh giới giữa chính – tà, xâm lược – chống xâm lược, hạ thấp hay bôi nhọ hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, thì đó không còn là sáng tạo nghệ thuật, mà là hành vi tiếp tay cho âm mưu “diễn biến hòa bình” trong lĩnh vực tư tưởng – văn hóa.
Không thể dùng “quyền sáng tạo” để phủ nhận sự thật lịch sử
Nhà văn, nhà phê bình văn học, cựu chiến binh Đông La từng viết: “Bảo Ninh đã thừa nhận khi viết tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” rằng, “tôi không muốn viết theo một cái “tông” có sẵn, nên Những gì tôi viết trong trang sách này, tôi cũng đã nói rằng nó không hoàn toàn là sự thật. Chiến tranh tóm gọn lại là sự chết chóc, huỷ diệt. Tôi nghĩ thế là quyền của tôi, và nếu có người phê phán, tôi thấy cũng chẳng sai, Cách viết của tôi về chiến tranh khác với các nhà văn khác”.
Từ những phát biểu trên có thể thấy, chính tác giả đã thừa nhận yếu tố hư cấu, phiến diện và chủ quan trong cách tiếp cận đề tài chiến tranh. Quyền sáng tạo văn học là cần thiết, nhưng sáng tạo không thể đồng nghĩa với bóp méo bản chất lịch sử, càng không thể nhân danh văn chương để hạ thấp tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến, làm mờ ranh giới giữa chiến tranh giải phóng dân tộc và “nội chiến”.
Chủ ý tiếp cận chiến tranh dưới góc nhìn phi chính nghĩa, phi chính trị, phi dân tộc, xem chiến tranh chỉ là bi kịch vô nghĩa, không phân biệt đúng – sai, chính – tà, có thể gieo hoài nghi trong nhận thức của thế hệ trẻ. Vấn đề đặt ra là, khi chính tác giả đã thừa nhận tác phẩm không phản ánh đầy đủ sự thật lịch sử, thì không ai có quyền áp đặt nó như một “chân lý” để giáo dục thế hệ trẻ.
Nhân vật Kiên, sự hư cấu làm méo mó hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”
Nhân vật Kiên trong “Nỗi buồn chiến tranh” được xây dựng với hàng loạt chi tiết: suy sụp tinh thần kéo dài, hoài nghi lý tưởng chiến đấu, sa đà vào dục vọng và bản năng, nhìn chiến tranh như một mất mát vô nghĩa. Cách khắc họa này đã tách rời người lính khỏi lý tưởng cách mạng, cắt đứt mối quan hệ giữa cá nhân – dân tộc – thời đại, và đồng nhất người lính cách mạng với nạn nhân tâm lý đơn thuần.
Trong khi đó, lịch sử đã chứng minh rõ ràng, “Bộ đội Cụ Hồ” chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, chứ không phải vì hận thù mù quáng. Gian khổ, hy sinh không làm họ mất đi nhân cách, mà làm họ trở nên cao đẹp hơn. Hình tượng người lính Việt Nam là biểu tượng của lạc quan, nhân ái, kỷ luật và lý tưởng cách mạng cao cả. Do đó, hư cấu văn học không thể và không được phép bôi nhọ, xuyên tạc bản chất tốt đẹp của một lực lượng đã làm nên lịch sử dân tộc.
Phát ngôn “nội chiến” của Hoàng Ấu Phương là sai lầm nghiêm trọng, đánh tráo khái niệm nguy hiểm
Trong tập 9 của bộ phim tài liệu “Chiến tranh Việt Nam” do Ken Burns và Lynn Novick thực hiện, nhà văn Bảo Ninh, tác giả tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh”, khi trả lời phỏng vấn đã phát biểu: “Chúng tôi ăn cùng một loại gạo, uống cùng một loại nước, chia sẻ cùng một nền văn hoá, cùng một loại âm nhạc. Chúng tôi đã hèn nhát theo cùng một cách, chúng tôi đã dũng cảm theo cùng một cách, không khác nhau, đó là một cuộc nội chiến.”
Phát biểu này đặc biệt nguy hiểm và sai lệch so với sự thật lịch sử. Bởi lẽ, Mỹ là quốc gia xâm lược, đã đưa hơn 500.000 quân viễn chinh cùng kho vũ khí hiện đại vào Việt Nam. Ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn là bộ máy tay sai, tồn tại nhờ viện trợ và chỉ huy của Mỹ, không thể xem đó là “nội chiến” giữa hai phe bình đẳng.
Nhận định của Hoàng Ấu Phương trùng khớp với luận điệu tuyên truyền của Mỹ, vốn từ lâu tìm cách gọi cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam là “nội chiến” nhằm xóa bỏ trách nhiệm xâm lược và rửa sạch tội ác chiến tranh.
Phát ngôn này không chỉ làm tổn thương hàng triệu liệt sĩ và gia đình họ, mà còn phủ nhận bản chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nếu đó là “nội chiến”, thì sự hy sinh của hàng triệu người Việt Nam vì độc lập dân tộc sẽ được hiểu ra sao? Ai là kẻ xâm lược, ai là người giải phóng?
Đây không phải là một ý kiến cá nhân vô hại, mà là sự lệch lạc nghiêm trọng về nhận thức lịch sử, cần được nhận diện và phản bác kịp thời.
Phản bác quan điểm của Thanh Hằng và Nguyễn Thúy Quỳnh, cho rằng “người phản đối không có chuyên môn”
Cần khẳng định rõ rằng, việc phê phán tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” không phải là phản ứng cảm tính hay ý kiến cá nhân của một số cựu chiến binh như Thanh Hằng, Nguyễn Thúy Quỳnh cố tình quy chụp, hạ thấp. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, liên quan đến bản chất lịch sử và lập trường tư tưởng.
Đặc biệt, Nguyên Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nhấn mạnh trên Tạp chí Cộng sản: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là cuộc chiến tranh chính nghĩa, là cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, không phải nội chiến. Phải kiên quyết đấu tranh chống xuyên tạc lịch sử; văn học, nghệ thuật phải góp phần bồi đắp lý tưởng, niềm tin, lòng yêu nước, không để các quan điểm sai trái chiếm lĩnh trận địa tư tưởng.”
Những chỉ đạo này cho thấy rõ đường lối, quan điểm của Đảng trong việc bảo vệ sự thật lịch sử và định hướng giá trị cho sáng tạo văn học – nghệ thuật; đồng thời là cơ sở chính trị, tư tưởng vững chắc để phản bác những cách nhìn sai lệch, xuyên tạc về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Ngay từ năm 1995, Tạp chí Cộng sản, cơ quan lý luận chính trị của Trung ương Đảng trong số 10 (tháng 10/1995), thời kỳ cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là Tổng Biên tập, đã đăng tải bài viết “Từ đâu đến Nỗi buồn chiến tranh?” của tác giả Trần Duy Châu.
Bài viết nêu rõ, “Bằng sự bôi nhọ sự nghiệp chống Mỹ của nhân dân ta, Bảo Ninh không chỉ xúc phạm đến những người đang sống… Tác giả ‘Nỗi buồn chiến tranh’ còn muốn ‘giết chết’ hẳn những người đã vĩnh viễn nằm xuống để cho dân tộc được quyết sinh.” Phát biểu này cho thấy, ngay từ khi tác phẩm xuất hiện, giới lý luận chính trị và văn học đã nhìn nhận rõ những lệch lạc trong tư tưởng và cách thể hiện của tác phẩm.
Cần nhấn mạnh rằng, các cựu chiến binh, những người trực tiếp cầm súng, chiến đấu, hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là những nhân chứng sống, mang trong mình “chuyên môn thực tiễn” không sách vở nào có thể thay thế. Do đó, không thể lấy danh nghĩa “phê bình văn học” để phủ nhận tiếng nói của lịch sử sống, hay xem nhẹ quan điểm của những người từng đi qua chiến tranh, từng góp phần làm nên chiến thắng của dân tộc.
Nhà văn, cựu chiến binh Đông La, người trực tiếp cầm súng trong chiến tranh đã chỉ ra vấn đề cốt lõi khi bàn về “Nỗi buồn chiến tranh”, Bảo Ninh đã thừa nhận những gì ông viết trong “Nỗi buồn chiến tranh” không hoàn toàn là sự thật. Nhưng khi viết về chiến tranh cách mạng, cái “không hoàn toàn là sự thật” ấy lại gây hậu quả rất lớn cho nhận thức xã hội.
“Không thể dùng hư cấu để làm méo mó hình ảnh người lính và phủ nhận ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến.” Nhà văn, cựu chiến binh Đông La nhấn mạnh.
Nhận định của Đông La bác bỏ thẳng thắn lập luận cho rằng “văn học thì được quyền khác lịch sử”, bởi trong những tác phẩm viết về cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc, mọi sự hư cấu, sáng tạo đều phải dựa trên nền tảng sự thật lịch sử và giá trị cách mạng, chứ không thể trở thành công cụ làm sai lệch nhận thức xã hội.
Nhà văn Nguyễn Trí Huân, cựu chiến binh, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội từng nhấn mạnh, “viết về chiến tranh không thể chỉ thấy đau thương, mất mát mà không thấy lý tưởng, niềm tin và chính nghĩa. Nếu chỉ còn nỗi buồn thì lịch sử sẽ bị nhìn lệch”.
Đây là một lập luận sâu sắc và có sức thuyết phục mạnh mẽ, phản bác quan điểm cho rằng “Nỗi buồn chiến tranh” phản ánh “sự thật sâu sắc nhất”. Thực tế, chiến tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam không chỉ là nỗi đau và mất mát, mà còn là khát vọng độc lập, niềm tin, ý chí và lý tưởng cao đẹp đã làm nên chiến thắng vĩ đại. Vì vậy, nếu chỉ nhìn chiến tranh bằng “nỗi buồn”, mà thiếu đi ánh sáng của lý tưởng và chính nghĩa, thì lịch sử sẽ bị bóp méo và con người cách mạng bị hiểu sai.
Nhà văn Hữu Thỉnh, nguyên Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, cựu chiến binh đã khẳng định một nguyên tắc nhất quán, “Đổi mới văn học không có nghĩa là phủ nhận lịch sử, càng không được xúc phạm những hy sinh to lớn của dân tộc.”
Quan điểm này hoàn toàn phù hợp với đường lối văn hóa – văn nghệ của Đảng, đồng thời bác bỏ mọi sự ngụy biện núp bóng “đổi mới” để xuyên tạc lịch sử hay hạ thấp giá trị cách mạng. v Đây không phải là vấn đề “cảm nhận cá nhân”, mà là kết luận có cơ sở khoa học, lịch sử và chính trị rõ ràng. Vấn đề cốt lõi không nằm ở “chuyên môn văn học”, mà là ở lập trường lịch sử và quan điểm chính trị của người cầm bút.
Dùng “chuyên môn” để phủ nhận tiếng nói chính nghĩa của lịch sử không chỉ là sự sai lệch về tư tưởng, mà còn là biểu hiện của sự ngạo mạn trí thức, đi ngược lại trách nhiệm công dân và đạo đức nghề nghiệp của người làm văn hóa, văn nghệ.
Phản biện không phải là chống đảng, càng không phải chống đổi mới
Ở cuối bài viết, Thanh Hằng đặt câu hỏi: “Những lời phản bác của độc giả có phải là chống Đảng, chống lại sự đổi mới toàn diện mà Đảng đang nỗ lực tiến hành hay không?”.Đây là cách đặt vấn đề mang tính đánh tráo khái niệm và quy chụp chính trị, cần được bác bỏ dứt khoát.
Thứ nhất, phản biện một tác phẩm văn học không đồng nghĩa với chống Đảng. Ngược lại, phản biện những biểu hiện xuyên tạc lịch sử, hạ thấp tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước chính là hành động bảo vệ quan điểm lịch sử, lập trường tư tưởng và nền tảng chính trị mà Đảng ta đã kiên định suốt nhiều thập kỷ.
Thứ hai, đổi mới không có nghĩa là xóa bỏ ranh giới giữa đúng – sai, chính nghĩa – phi nghĩa trong lịch sử. Đảng ta chủ trương đổi mới tư duy, đổi mới phương thức lãnh đạo, đổi mới trong văn hóa – văn nghệ, nhưng chưa bao giờ cho phép lợi dụng đổi mới để lật sử, đánh tráo bản chất cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc thành “nội chiến”, hay bôi mờ hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”.
Thứ ba, gán cho các cựu chiến binh, những người từng trực tiếp chiến đấu, hy sinh, hoặc những độc giả có trách nhiệm xã hội, cái mũ “chống Đảng” chỉ vì họ lên tiếng phản bác một tác phẩm gây tranh cãi là một sự xúc phạm nghiêm trọng. Đó không chỉ là phủ nhận trải nghiệm lịch sử sống, mà còn đi ngược lại tinh thần dân chủ, tự phê bình và lắng nghe mà Đảng ta luôn đề cao.
Cần nhấn mạnh rằng, Đảng ta không bao giờ đồng nhất đổi mới với việc phủ nhận lịch sử, cũng không đồng nhất sáng tạo văn học với quyền xuyên tạc sự thật. Mọi nỗ lực đổi mới đều nhằm làm giàu thêm nhận thức xã hội trên nền tảng sự thật lịch sử, chứ không phải phá vỡ nền tảng ấy.
Vì vậy, việc đặt câu hỏi phản biện rồi ngầm dẫn dắt dư luận cho rằng những người phản đối “Nỗi buồn chiến tranh” là chống Đảng, chống đổi mới không chỉ thiếu cơ sở lý luận và thực tiễn, mà còn là một ngụy biện nguy hiểm, có thể vô tình tiếp tay cho việc triệt tiêu phản biện lành mạnh và bóp méo tinh thần đổi mới mà Đảng đang kiên trì thực hiện. Bảo vệ sự thật lịch sử, bảo vệ tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và danh dự của những người đã hy sinh không phải là chống Đảng, mà chính là hành động đứng trong hàng ngũ của Đảng. Chỉ khi đổi mới bị lợi dụng để phủ nhận lịch sử, thì sự im lặng mới là có lỗi.
Văn hóa – nghệ thuật không thể trở thành công cụ lừa dối nhận thức công chúng
Trong bối cảnh lừa đảo, thao túng thông tin trên mạng xã hội lan tràn, tin giả và “lịch sử giả” được “nghệ thuật hóa” ngày càng tinh vi, trong khi một bộ phận độc giả trẻ thiếu nền tảng kiến thức lịch sử, thì những tác phẩm mập mờ ranh giới đúng – sai, lẫn lộn chính – tà, phủ nhận bản chất xâm lược của Mỹ lại vô hình trung trở thành công cụ đánh tráo nhận thức, lừa dối công chúng dưới vỏ bọc văn chương.
Việc lợi dụng văn hóa – nghệ thuật để đánh tráo khái niệm, gieo hoài nghi lịch sử, làm mờ ranh giới giữa đúng và sai là một hình thức lừa dối tinh vi, nguy hiểm, bởi nó không chỉ tác động tức thời, mà còn âm thầm làm sai lệch tư tưởng xã hội trong thời gian dài.

Vì sao “Nỗi buồn chiến tranh” bị phản bác, nhưng không bị thu hồi, để rồi đến 2025 lại được vinh danh?
Thực tế lịch sử, đã có phản bác chính thống, nghiêm khắc
Không thể phủ nhận một sự thật lịch sử: Ngay từ giữa thập niên 1990, “Nỗi buồn chiến tranh” đã không hề được giới lý luận, phê bình cách mạng tiếp nhận một cách dễ dãi. Tạp chí Cộng sản, cơ quan lý luận chính trị của Trung ương Đảng đã có nhiều bài viết phân tích những lệch lạc về tư tưởng, cảnh báo nguy cơ “phi chính nghĩa hóa” cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Nhiều nhà văn lão thành, từng giữ cương vị Tổng Biên tập, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, cùng các nhà văn, cựu chiến binh trực tiếp cầm súng, cũng đã công khai phản bác, cho rằng tác phẩm thiếu chuẩn mực về chính trị và lịch sử, thể hiện cách nhìn chiến tranh phiến diện, cực đoan, bi quan, khi mô tả người lính xa rời bản chất “Bộ đội Cụ Hồ”. Như vậy, không hề có chuyện xã hội “đồng thuận” với tác phẩm này ngay từ đầu, mà ngược lại, đã có những cảnh báo nghiêm túc và phản biện thẳng thắn từ giới lý luận, văn nghệ cách mạng.
Vậy vì sao không bị thu hồi vào thời điểm đó?
Đây là câu hỏi then chốt, cần được nhìn nhận thẳng thắn từ những nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Bối cảnh những năm đầu Đổi mới. Sau năm 1986, đất nước bước vào thời kỳ thoát khỏi cơ chế bao cấp, mở cửa và hội nhập, với chủ trương tránh tư duy “đóng khung”, giảm bớt tính hành chính trong quản lý văn học – nghệ thuật. Trong bối cảnh đó, nhiều tác phẩm có xu hướng nới rộng biên độ sáng tác, thậm chí “vượt rào”, nhưng không bị xử lý dứt khoát, mà được để tồn tại với lý do “để thời gian và dư luận sàng lọc”, “không nên hành chính hóa văn học”. Đây không phải là sự thừa nhận về mặt tư tưởng, mà là một sự nhân nhượng trong quản lý, phản ánh giai đoạn chuyển tiếp nhạy cảm khi đất nước vừa bước vào công cuộc đổi mới. Chính trong thời điểm này, một số tác phẩm chưa chín về tư tưởng vẫn được lưu hành.
Cách tiếp cận của giới lý luận thời kỳ đó là “phê phán để cảnh tỉnh”, chứ không phải “cấm đoán”. Các cơ quan quản lý tin rằng, độc giả, nhất là thế hệ từng trải qua chiến tranh có nền tảng lịch sử vững vàng, sẽ đủ khả năng phân biệt đúng – sai. Tuy nhiên, điều này chỉ đúng với thế hệ cũ, còn thế hệ trẻ về sau, thiếu trải nghiệm lịch sử trực tiếp dễ bị tác động bởi các cách diễn giải lệch lạc.
Thêm vào đó, thời điểm những năm 1990, “Nỗi buồn chiến tranh” chưa bị “chính trị hóa quốc tế” mạnh mẽ, chưa được truyền thông phương Tây nâng đỡ, và chưa trở thành công cụ trong diễn ngôn toàn cầu về “nội chiến Việt Nam”. Do đó, mức độ nguy hiểm về mặt tư tưởng của tác phẩm khi ấy chưa bộc lộ rõ ràng.
Một nguyên nhân khác là tâm lý nể nang, né tránh trách nhiệm. Một bộ phận cơ quan quản lý, nhà xuất bản ngại va chạm, ngại kết luận dứt khoát đúng – sai, chấp nhận quan điểm “ý kiến khác nhau” như một giải pháp an toàn. Tuy nhiên, lịch sử không thể là lĩnh vực của sự thỏa hiệp. Sự thật lịch sử, đặc biệt là bản chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chỉ có một, và không thể bị lẫn lộn hay “sàng lọc” theo thời gian.
Bước ngoặt nguy hiểm, tác phẩm bị “tái định nghĩa” từ bên ngoài
Sau đó, tác phẩm “Nỗi buồn chiến tranh” được dịch sang tiếng Anh và xuất bản tại Australia vào giai đoạn 1993–1994 với tựa đề “The Sorrow of War” (Nỗi đau của chiến tranh). Tiếp đó, một đơn vị sản xuất có yếu tố Mỹ và Anh đã mua bản quyền chuyển thể tiểu thuyết này thành phim.
Đặc biệt, trong bộ phim tài liệu “The Vietnam War” của Ken Burns và Lynn Novick, phát biểu của Bảo Ninh về “nội chiến” đã làm lộ rõ bản chất tư tưởng của vấn đề. Ở thời điểm này, “Nỗi buồn chiến tranh” không còn đơn thuần là một tác phẩm văn học, mà đã trở thành một mảnh ghép trong diễn ngôn chính trị – lịch sử có lợi cho Mỹ, góp phần củng cố luận điệu xuyên tạc về bản chất cuộc chiến tranh Việt Nam.
Cần lưu ý rằng, dự án phim nói trên là sản phẩm của một nhà sản xuất độc lập, có sự tham gia của ê-kíp nước ngoài và đối tác phía Việt Nam, cho thấy tác phẩm đã được “quốc tế hóa” trong một bối cảnh đầy nhạy cảm về tư tưởng và lịch sử.
Vậy vì sao đến năm 2025 lại được vinh danh?
Đây là một câu hỏi đau xót nhưng cần được nói thẳng. Thực tế cho thấy, đã có sự lỏng lẻo trong công tác quản lý tư tưởng – văn hóa của một bộ phận hội đồng thẩm định, cán bộ quản lý và người làm công tác giải thưởng. Trong quá trình xét duyệt, một số người quá chú trọng hình thức “đa chiều”, “hội nhập”, hay “được phương Tây công nhận”, mà xem nhẹ các tiêu chí về chính trị, lịch sử và bản sắc dân tộc.
Điều nguy hiểm là sự đánh tráo khái niệm giữa “giá trị nghệ thuật” và “giá trị tư tưởng”. Có ý kiến cho rằng “văn hay thì có thể bỏ qua nội dung chân thực”, đó là một sai lầm nghiêm trọng, bởi tác phẩm viết về chiến tranh cách mạng không thể tách rời giữa nghệ thuật, tư tưởng và lập trường dân tộc. Văn học không bao giờ đứng ngoài chính trị, nhất là khi đề cập đến vận mệnh đất nước, đến lịch sử đấu tranh và hy sinh của dân tộc Việt Nam.
Đáng tiếc là, sự im lặng của không ít người có trách nhiệm, những người biết sai nhưng ngại va chạm, ngại bị quy chụp là “bảo thủ”, đã vô tình tạo điều kiện để quan điểm sai trái lấn át dần quan điểm đúng.
Điều này đặc biệt nguy hiểm đối với thế hệ trẻ, bởi nó làm mờ ranh giới giữa thật – giả, chính – tà, và đe dọa sự trong sáng của nhận thức lịch sử trong đời sống xã hội hôm nay.
Vậy cuối cùng ai đúng, ai sai?
Câu trả lời đã rõ ràng, không thể mơ hồ. Những người lên tiếng phản bác từ năm 1995 là đúng, đúng về lịch sử, đúng về lập trường tư tưởng, đúng với sự thật của chiến tranh, đúng với quan điểm nhất quán của Đảng ta về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, và đúng với đạo lý đối với liệt sĩ, nhân dân. Ngược lại, những quan điểm coi cuộc kháng chiến chống Mỹ là “nội chiến” là sai, sai về bản chất lịch sử, sai về lập trường chính trị, và sai về trách nhiệm công dân.
Việc vinh danh tác phẩm năm 2025 không thể biến cái sai thành đúng. Lịch sử không thay đổi theo giải thưởng, và chân lý không phụ thuộc vào truyền thông hay những lời khen từ phương Tây. Sự thật không thể bị đảo ngược chỉ vì thời gian trôi qua. Cần nhìn nhận thẳng thắn rằng, có những sai lầm không nằm ở bản thân tác phẩm, mà nằm ở khâu thẩm định và quản lý tư tưởng – văn hóa. Sự thiếu kiên quyết, thiếu bản lĩnh trong đánh giá đã khiến những lệch lạc bị dung dưỡng, để rồi sai lầm ban đầu trở thành ngộ nhận kéo dài.
“Nỗi buồn chiến tranh” không phải đến năm 2025 mới gây tranh cãi; nó đã được cảnh báo từ năm 1995.
Việc không thu hồi khi đó không có nghĩa là tác phẩm đúng, và việc được vinh danh sau này càng không thể biến sai thành đúng. Lịch sử chỉ có một, sự thật chỉ có một, và trách nhiệm với dân tộc không thể nhân nhượng.
Bài học lớn cần rút ra là: Không được chủ quan trong công tác quản lý văn hóa – tư tưởng; Không để văn học, nghệ thuật trở thành công cụ cho “diễn biến hòa bình”; Phải lắng nghe tiếng nói của cựu chiến binh, của nhân chứng lịch sử; Và tuyệt đối không đánh đổi lịch sử dân tộc để lấy “vinh danh quốc tế”.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam không phải là một cuộc nội chiến. Đó là cuộc chiến tranh chính nghĩa của cả dân tộc vì độc lập, tự do và thống nhất đất nước. “Bộ đội Cụ Hồ” không phải là những con người vô định, mất phương hướng hay suy đồi lý tưởng, mà là biểu tượng cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của lòng nhân ái và niềm tin tất thắng.
Đổi mới không bao giờ là cái cớ để lật lại lịch sử. Mọi quan điểm biện minh cho “Nỗi buồn chiến tranh” theo hướng phi chính nghĩa, phi lịch sử, phi dân tộc đều cần được phản bác một cách thẳng thắn, khoa học và không khoan nhượng. Bởi bảo vệ lịch sử không chỉ là bảo vệ quá khứ, mà còn là bảo vệ nền tảng tư tưởng, bảo vệ tương lai của dân tộc Việt Nam.
Không thể cho rằng chỉ những người “có chuyên môn văn học” mới được quyền đánh giá “Nỗi buồn chiến tranh”. Thực tế cho thấy, từ các nhà phê bình, lý luận trên Tạp chí Cộng sản, đến nhiều nhà văn và cựu chiến binh từng trực tiếp tham gia chiến đấu, đều đã chỉ ra những lệch lạc nghiêm trọng trong cách tác phẩm này tiếp cận lịch sử và hình tượng người lính. Đây không phải là một cuộc tranh luận thẩm mỹ, mà là vấn đề về lập trường lịch sử và trách nhiệm xã hội của văn học.
“Nỗi buồn chiến tranh” không phải đến năm 2025 mới được “hiểu đúng”, mà thực tế đã từng được nhìn nhận và phê phán đúng đắn từ năm 1995. Tuy nhiên, sự thiếu kiên quyết trong công tác quản lý tư tưởng – văn hóa đã để lại một khoảng trống kéo dài và khoảng trống ấy đã bị lấp đầy bằng các quan điểm sai lệch, nhập khẩu, mang hơi hướng xét lại lịch sử.
Ai đúng? Những người đứng về phía sự thật lịch sử và chính nghĩa dân tộc. Ai sai? Những ai nhân danh văn chương để làm mờ bản chất cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bởi lẽ, sự thật lịch sử là bất biến, và trách nhiệm bảo vệ nó là nghĩa vụ thiêng liêng của mọi người Việt Nam – trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Trung tướng Ngô Quý Đức/Nguyên Cục trưởng, Cục Cứu hộ – Cứu nạn


