Thứ sáu, Tháng mười 4, 2024
* Email: bbt.dongnama@gmail.com *Tòa soạn: 0989011688 - 0768908888
spot_img

Tác động chính sách đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người dân tộc thiểu số ở các tỉnh trung du, miền núi bắc bộ gắn với đẩy mạnh liên kết vùng hiện nay

ĐNA -

Khu vực trung du và miền núi Bắc Bộ là nơi sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số, với điều kiện kinh tế – xã hội còn gặp nhiều khó khăn. Người dân tộc thiểu số tại đây thường gặp hạn chế về cơ hội tiếp cận giáo dục, đào tạo nghề và việc làm, dẫn đến thu nhập thấp và mức sống chưa cao. Việc nâng cao trình độ nghề nghiệp và giải quyết việc làm cho họ không chỉ giúp cải thiện đời sống kinh tế mà còn góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền và giữa các nhóm dân tộc trong cả nước. Tác động chính sách đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người dân tộc thiểu số ở các tỉnh trung du, miền núi Bắc Bộ gắn với đẩy mạnh liên kết vùng hiện nay có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững của khu vực này.

đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người dân tộc thiểu số ở các tỉnh trung du, miền núi bắc bộ. Ảnh minh họa.

Chính sách đào tạo nghề và giải quyết việc làm gắn với phát triển kinh tế vùng là giải pháp quan trọng nhằm khai thác tiềm năng kinh tế địa phương, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tộc thiểu số hòa nhập vào nền kinh tế thị trường. Điều này đòi hỏi sự liên kết chặt chẽ giữa các tỉnh trong khu vực nhằm tận dụng tối đa nguồn lực sẵn có, đặc biệt là tài nguyên thiên nhiên, nhân lực và các cơ hội hợp tác kinh tế. Thông qua việc đẩy mạnh liên kết vùng, các tỉnh có thể phối hợp phát triển các chương trình đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động địa phương và khu vực, từ đó giải quyết được vấn đề việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động. Đồng thời, việc phát triển các ngành nghề truyền thống của các dân tộc thiểu số, kết hợp với ứng dụng công nghệ hiện đại, cũng sẽ giúp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa đặc sắc của địa phương.

Ngoài ra, chính sách đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người dân tộc thiểu số còn góp phần giảm tỷ lệ di cư lao động, ổn định an ninh trật tự và nâng cao chất lượng cuộc sống ở khu vực miền núi. Việc tạo ra nhiều cơ hội việc làm bền vững và lâu dài cho người dân không chỉ là chìa khóa giúp giảm nghèo mà còn tăng cường sự tham gia của họ vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Trong bối cảnh đất nước đang thúc đẩy quá trình hội nhập và phát triển kinh tế, việc xây dựng và triển khai các chính sách đào tạo nghề hiệu quả cho người dân tộc thiểu số gắn với liên kết vùng là một trong những nhiệm vụ chiến lược quan trọng, giúp phát triển khu vực trung du, miền núi Bắc Bộ bền vững và toàn diện hơn.

Thực trạng chính sách đào tạo nghề và giải quyết việc làm và những tác động của nó.
Để phát triển giáo dục nghề nghiệp và giải quyết việc làm cho người lao động vùng dân tộc thiểu số miền núi, theo Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19 tháng 6 năm 2020 của Quốc hội về phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số (ĐBDTTS) và miền núi giai đoạn 2021 – 2030. Các chính sách liên quan đến đào tạo nghề và giải quyết việc làm hướng tới các nội dung:

(i) Xây dựng các mô hình đào tạo nghề, giao nhiệm vụ/đặt hàng/đấu thầu đào tạo nghề phù hợp với điều kiện tự nhiên và tập quán của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi gắn với giải quyết việc làm và hiệu quả việc làm sau đào tạo;

(ii) Cung cấp thông tin thị trường lao động, dịch vụ hỗ trợ tìm kiếm, kết nối việc làm cho lao động là người dân tộc thiểu số;

(iii) Chuẩn hóa kỹ năng lao động và kết nối hiệu quả đào tạo và giải quyết việc làm;

(iv) Tăng cường các điều kiện đảm bảo chất lượng dạy và học cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp vùng ĐBDTTS và miền núi về đội ngũ, về chương trình đào tạo, về cơ sở vật chất và ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong dạy và học;

(v) Hỗ trợ đào tạo nghề, hỗ trợ người lao động thuộc vùng ĐBDTTS và miền núi đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng.

Các dự án này đang góp phần vào chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh được liên kết vùng và giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho ĐBDTTS. Trong Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025 theo Quyết định số 90/QĐ-Ttg, ngày 18/1/2022, đã chú trọng đến nội dung này, cụ thể có tiểu dự án 1 về “Phát triển giáo dục nghề nghiệp vùng nghèo, vùng đặc biệt khó khăn” trong Dự án 4. Và tiểu dự án 3 “Dự án phát triển giáo dục nghề nghiệp và giải quyết việc làm cho ngời lao động vùng dân tộc thiểu số và miền núi” trong Dự án 5.

Đối với tỉnh Phú Thọ và các tỉnh Trung du, miền núi Bắc bộ thực hiện Chương trình phát triển kinh tế xã hội vùng ĐBDTTS giai đoạn 2021-2025 đã ban hành nhiều chính sách sách hỗ trợ đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao động, lao động ở nông thôn và đặc biệt là người đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn. Các chính sách đang từng bước có những hiệu quả tích cực góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động, phát triển kinh tế của vùng. Chẳng hạn, Phú Thọ đã ban hành Kế hoạch số 3036/KH-UBND về việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2025 nhằm hướng đến phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, giảm nghèo nhanh, bền vững, thu hẹp dần khoảng cách về mức sống, thu nhập của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi so với bình quân của tỉnh.

Các chính sách đào tạo nghề, giải quyết việc làm đã được thực hiện dưới nhiều chương trình, chính sách, dự án và chủ yếu được lồng ghép trong các chính sách chung như Chương trình 135, Chương trình 30a, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 và các chính sách đặc thù cho giáo dục – đào tạo, cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, cụ thể như: ưu đãi tín dụng; chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số; đào tao, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chế biến sản phẩm; vốn, giống khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh…

Quá trình thực hiện chính sách đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người đồng bào dân tộc thiểu số các tỉnh Trung du, miền núi Bắc bộ và tỉnh Phú Thọ đã có những tác động cụ thể sau:

Thứ nhất, các chính sách đào tạo, giáo dục nghề nghiệp góp phần thay đổi nhận thức cho người đồng bào dân tộc thiểu số.
Trong những năm gần đây, mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp phát triển nhanh, đa dạng hóa về loại hình và trình độ đào tạo, cơ sở vật chất, trang thiết bị ngày càng được tăng cường, nhiều mô hình đào tạo gắn với nhu cầu doanh nghiệp, thị trường lao động đã được các địa phương chú trọng, các chính sách đào tạo nghề, giải quyết việc làm đối với người đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Phú Thọ và các tỉnh Trung du, miền núi Bắc bộ đang đem lại những hiệu quả rõ nét, nhất là từng bước giúp họ thoát nghèo bền vững và có cuộc sống tốt đẹp hơn. Điều quan trọng hơn là những chính sách này đang từng bước làm thay đổi nhận thức của họ về học nghề, tạo việc làm và khởi nghiệp, từ đó thay đổi về chất góp phần vào việc phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Thực tế thông qua việc triển khai các hoạt động tập huấn, nâng cao kiến thức, kỹ năng về khởi nghiệp, lập nghiệp cho thanh niên; tổ chức cho các bạn trẻ giao lưu, học hỏi với những nhà đầu tư, doanh nghiệp đã khởi nghiệp thành công từ số vốn nhỏ… Từ đó giúp các bạn trẻ ĐBDTTS nắm rõ hơn những nhận thức chung về phát triển kinh tế; kiến thức chung về ứng dụng khoa học công nghệ vào phát triển kinh tế; cùng nhau học hỏi, trao đổi kinh nghiệm để vươn lên thoát nghèo… Phát huy nội lực của sức trẻ, phong trào khởi nghiệp, lập nghiệp đã lan tỏa rộng rãi khu vực với nhiều mô hình kinh tế hay, cách làm sáng tạo, khai thác được thế mạnh địa phương.

Thứ hai, góp phần từng bước giảm nghèo bền vững
Có thể thấy, các tỉnh vùng Trung du và miền núi Bắc bộ vẫn là vùng “lõi nghèo” của cả nước khi tỷ lệ nghèo đa chiều năm 2022 là 22%, gấp gần 3 lần bình quân cả nước (xem biểu đồ 1). Đối với tỉnh Phú Thọ, giai đoạn 2016-2020, tỉ lệ hộ nghèo hàng năm giảm bình quân 1,61%, mức giảm tỉ lệ hộ nghèo tại các xã đặc biệt khó khăn đạt 4%/năm. Tỉ lệ hộ nghèo của tỉnh giảm từ 12,04% năm 2016 xuống còn 4,34% năm 2020. Tính đến 2022, tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí mới chiếm 5,19% (giảm 0,69%), hộ cận nghèo 4,18% (giảm 0,49%) so với đầu kỳ. Nhờ các chương trình, dự án, chính sách đầu tư, hỗ trợ, đã giúp vùng dân tộc thiểu số và miền núi ngày càng hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật, văn hóa – xã hội thiết yếu. Bên cạnh đó, các tỉnh trên địa bàn đã đa dạng hóa sinh kế, thực hiện lồng ghép nhiều hoạt động tập huấn của ngành nông nghiệp về kỹ thuật, hướng dẫn giáo dục nghề nghiệp… đồng bào được tiếp cận nguồn cây, con giống, vật tư phân bón và tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, thu nhập, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi ngày một nâng cao, thu hẹp dần khoảng cách giữa vùng kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn với các vùng khác trên địa bàn.

Biều đồ 1: Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo ĐBDTTS theo khu vực, thành thị, nông thôn và vùng kinh tế – xã hội

Nguồn: Kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế – xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019.

Thứ ba, điện kiện cơ sở hạ tầng ngày càng đáp ứng góp phần cho tỷ lệ đi học chung và tỷ lệ đi học đúng tuổi của người đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng cải thiện. Kết quả cho thấy, quy mô, mạng lưới trường lớp được củng cố, phát triển, chất lượng của học sinh dân tộc thiểu số chuyển biến rõ nét, từng bước thu hẹp khoảng cách chênh lệch chất lượng giáo dục, đào tạo cho người đồng bào dân tộc thiểu số. So với các Vùng khác trong cả nước, tỷ lệ đi học chung và tỷ lệ đi học đúng tuổi của người ĐBDTTS vùng Trung du, miền núi phía Bắc khá cao ở các cấp học, chỉ sau vùng Đồng bằng sông Hồng.

Bảng 1: Tỷ lệ đi học chung và tỷ lệ đi học đúng tuổi theo cấp học, thành thị, nông thôn và vùng kinh tế – xã hội.

Nguồn: Kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế – xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019.

Đối với tỉnh Phú Thọ có nhiều cơ chế, chính sách ưu tiên phát triển giáo dục đào tạo vùng ĐBDTTS, kết quả cho thấy, 100% các xã vùng dân tộc thiểu số và miền nui có đủ hệ thống trường học các cấp từ mẫu giáo, tiểu học đến trung học cơ sở, tỷ lệ phòng học kiên cố đạt 100%, tỷ lệ học sinh mẫu giáo 5 tuổi đến trường 100%, tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên đọc thông, viết thạo tiếng phổ thông đạt 96,8%. Về hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú, dân tộc bán trú, hiện toàn tỉnh có 5 trường dân tộc nội trú (1 trường dân tộc nội trú cấp THPT, 1 trường dân tộc nội trú cấp THCS và THPT, 3 trường dân tộc nội trú cấp THCS) và 1 trường dân tộc bán trú với 62 lớp và 2.030 học sinh. Việc phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành chức năng tăng cường quản lý hoạt động dạy nghề, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên đạt chuẩn theo quy định của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội gắn đào tạo nghề với giải quyết việc làm thông qua việc ký kết các hợp đồng cung ứng lao động với các doanh nghiệp. Đồng thời thực hiện liên kết vùng về giáo dục, tăng cường các hoạt động hướng nghiệp, tư vấn, giới thiệu việc làm đem lại những chuyển biến và có kết quả tích cực.

Thứ tư, hiệu quả từ các chính sách như: giáo dục nghề nghiệp, triển khai xây dựng các mô hình đào tạo nghề, hỗ trợ đào tạo nghề; hỗ trợ người lao động thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng, cung cấp thông tin thị trường lao động, dịch vụ hỗ trợ tìm kiếm, kết nối việc làm cho lao động là người dân tộc thiểu số, tăng cường các điều kiện đảm bảo chất lượng dạy và học cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp vùng dân tộc thiểu số và miền núi… đã từng bước hỗ trọng người đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận thuận lợi với thông tin thị trường lao động, dịch vụ hỗ trợ tìm kiếm, kết nối việc làm. Hỗ trợ được cho thanh niên dân tộc thiểu số sau khi tốt nghiệp các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp tìm kiếm được việc làm phù hợp góp phần tăng thu nhập và việc làm bền vững.

Những vấn đề đặt ra và hàm ý chính sách nâng cao hiệu quả chính sách đào tạo nghề, giải quyết việc làm gắn với đẩy mạnh liên kết vùng

Những vấn đề đặt ra
Một là, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhưng chưa thật sự bền vững, sự chênh lệch khoảng cách về mức sống giữa các dân tộc, các vùng miền trên địa bàn các tỉnh còn lớn. Kinh tế vùng dân tộc thiểu số và miền núi phát triển chưa thực sự bền vững, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, nhiều nơi vẫn còn duy trì tập quán canh tác cũ, chưa ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu chưa đảm bảo. Bên cạnh đó, hệ thống chính sách về giảm nghèo vẫn phức tạp, nhiều tầng nấc, khó khăn cho việc áp dụng của cán bộ cơ sở và việc tiếp cận của người dân. Việc rà soát, tích hợp, sửa đổi, ban hành chính sách về giảm nghèo chưa đáp ứng yêu cầu. Một số chính sách về nguồn nhân lực như chính sách đầu tư nguồn nhân lực cho người dân tộc thiểu số, chính sách cử tuyển,… chưa gắn với sử dụng sau đào tạo và chưa phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng vùng do vậy hiệu quả chưa cao.

Hai là, công tác giáo dục, đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho ĐBDTTS vẫn còn một số hạn chế như các ngành, nghề dạy chủ yếu vẫn là nghề liên quan đến nông nghiệp, ngắn hạn. Nhiều lao động có nhu cầu chuyển đổi sang nghề phi nông nghiệp nhưng vẫn chưa được đào tạo để đáp ứng yêu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp. Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho ĐBDTTS, nhất là nghề phi nông nghiệp, việc làm tại chỗ hiệu quả còn thấp. Nhiều lao động đã được đào tạo nhưng chưa tìm được việc làm hoặc làm những công việc không phù hợp với ngành, nghề được đào tạo. Tỷ lệ học sinh dân tộc thiểu số của Vùng học Trung học phổ thông chưa cao (56,9%). Nhiều địa phương không bố trí được việc làm cho người học cử tuyển sau khi tốt nghiệp. Công tác đào tạo cử tuyển chưa gắn với sử dụng lao động. Bên cạnh đó, chất lượng đào tạo nghề cho thanh niên dân tộc thiểu số đạt hiệu quả khiêm tốn. Phần lớn lao động sau khi học nghề xong không tìm được việc làm hoặc có việc làm nhưng doanh nghiệp phải đào tạo lại.

Ba là, trong việc huy động, thu hút nguồn lực đầu tư, khai thác tiềm năng, lợi thế của vùng dân tộc thiểu số và miền núi chưa hấp dẫn, hiệu quả thấp, nguồn lực đầu tư còn dàn trải, cơ sở hạ tầng đã được phát triển, nhưng ở một số nơi chưa đáp ứng được yêu cầu. Một số cơ chế, chính sách kết nối doanh nghiệp hỗ trợ lao động đồng bào dân tộc thiểu số còn chưa thực sự phát huy hiệu quả; chưa đủ mạnh và hấp dẫn để thu hút doanh nghiệp có tiềm lực đầu tư vào công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản, nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị. Một bộ phận đồng bào khó tiếp cận với tiến bộ khoa học kỹ thuật, vẫn còn duy trì tập quán canh tác cũ, năng suất lao động thấp, giá trị sản phẩm chưa cao, thiếu tính ổn định.

Một số khuyến nghị
Thứ nhất, việc dạy nghề và giải quyết việc làm cho người đồng bào dân tộc thiểu số thiết nghĩ cần: (i) Phối hợp triển khai thực hiện hiệu quả cuộc vận động “Làm thay đổi nếp nghĩ, cách làm của đồng bào DTTS, làm cho đồng bào DTTS từng bước vươn lên thoát nghèo bền vững”. (ii) Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm và bền vững, tập trung cho các xã, thôn đặc biệt khó khăn; giải quyết các vấn đề bức xúc, cấp bách nhất; ưu tiên hỗ trợ hộ nghèo, các nhóm DTTS khó khăn; (iii) Hài hòa các cơ chế, quy trình áp dụng thống nhất trong các dự án, tiểu dự án của Chương trình; ưu tiên lựa chọn các nội dung hỗ trợ đầu tư có định mức cao hơn để tổ chức thực hiện đối với các đối tượng thụ hưởng; (iv) Đảm bảo nguyên tắc không trùng lắp giữa các hoạt động, nội dung hỗ trợ đầu tư của các Dự án, Tiểu dự án thuộc Chương trình đối với cùng một địa bàn, cùng một đối tượng thụ hưởng;

Thứ hai, Hạn chế tình trạng dạy nghề theo chỉ tiêu thành tích, dạy nghề theo phong trào, không gắn kết dạy nghề với nhu cầu thị trường, với thực tiễn kinh tế – xã hội của địa phương, với doanh nghiệp, cơ sở sản xuất. Cùng với việc hỗ trợ chi phí cho các hộ và người DTTS học nghề, chuyển đổi nghề, các địa phương cần có cơ chế khuyến khích, hỗ trợ cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ sản xuất có đào tạo và sử dụng nhiều lao động là người DTTS. Huy động các nguồn vốn tín dụng thông qua các chính sách tín dụng cho từng đối tượng, nội dung hỗ trợ thuộc phạm vi đầu tư để triển khai các dự án hỗ trợ sản xuất và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật. Đồng thời huy động, thu hút nguồn đóng góp từ các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân (bằng tiền, hiện vật hoặc ngày công lao động) trên tinh thần tự nguyện, công khai, minh bạch, rõ trách nhiệm giải trình theo quy định của pháp luật.

Thứ ba, Quy hoạch lại hệ thống mạng lưới trường, lớp, cơ sở giáo dục, đào tạo nghề ở vùng đồng bào DTTS cho phù hợp với quy hoạch chung của toàn vùng và của địa phương về giáo dục – đào tạo. Tăng cường đầu tư, hỗ trợ các cơ quan quản lý về giáo dục nghề nghiệp, các cơ sở dạy nghề, các trung tâm dịch vụ việc làm, các doanh nghiệp, người lao động để nâng cao hiệu quả dạy nghề gắn với giải quyết việc làm ở vùng đồng bào DTTS. Chú trọng đào tạo và đào tạo lại để phát triển, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên dạy nghề, bảo đảm đủ về số lượng, chuẩn về nghề nghiệp, hợp lý về cơ cấu, tăng cường giáo viên dạy nghề thích ứng với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, trang bị những kỹ năng cần thiết cho người lao động DTTS thích ứng với nhu cầu của thị trường và từng bước đẩy nhanh lộ trình cơ giới hóa, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Hướng đến phát triển hệ thống giáo dục nghề nghiệp mở, linh hoạt, liên thông.

Thứ tư, Để triển khai công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động vùng dân tộc thiểu số cần tổ chức thực hiện cơ chế đặt hàng đào tạo nghề và chịu trách nhiệm trực tiếp về hiệu quả thực hiện nguồn vốn đào tạo nghề cho lao động là đồng bào dân tộc thiểu số theo các chính sách về dạy nghề, giải quyết việc làm một cách cụ thể. Đồng thời, xây dựng kế hoạch đào tạo nghề cho lao động hằng năm, trong đó xác định cụ thể các nội dung: (i) Xây dựng danh mục nghề đào tạo; (ii) Có cơ chế thu hút các cơ sở tham gia đào tạo nghề cho lao động; (iii) Quy định cụ thể mức chi phí đào tạo cho từng nghề đào tạo phù hợp với thực tế của địa phương. Ngoài mức hỗ trợ nêu trong các chính sách về dạy nghề, giải quyết việc làm, các địa phương căn cứ khả năng nguồn ngân sách của mình quyết định mức hỗ trợ bổ sung cho người học…

Thứ năm, về công tác truyền thông tại các địa phương cần xây dựng chương trình, chuyên trang, chuyên mục riêng trên đài phát thanh, truyền hình, báo đài địa phương. Nội dung tuyên truyền bao gồm chính sách, pháp luật về dạy nghề; các chính sách hỗ trợ học nghề, tạo việc làm; hướng dẫn kỹ thuật, kiến thức sản xuất, hướng nghiệp; các mô hình, cá nhân điển hình trong đào tạo nghề cho người đồng bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, tư vấn người DTTS học nghề phù hợp với khả năng, nhu cầu, nghiên cứu tổ chức các khóa, các lớp đào tạo nghề có chương trình, thời gian phù hợp trình độ dân trí, tâm lý học viên là người DTTS.

ThS Hồ Thị Nhân Linh, ThS Lại Thị Thu Hà

Tài liệu tham khảo
1.Phạm Thị Thu Hương, “Phú Thọ: Đẩy mạnh đào tạo nghề, giải quyết việc mà cho người lao động”. https://consosukien.vn/phu-tho-day-manh-dao-tao-nghe-giai-quyet-viec-lam-cho-nguoi-lao-dong.htm. Truy cập ngày 20/9/2023.
2.Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19 tháng 6 năm 2020 của Quốc hội về phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030
3.Bích Ngọc, “Giải quyết việc làm cho người dân tộc thiểu số và mienf núi nhằm hướng tới phát triển bền vững”. https://consosukien.vn/giai-quyet-viec-lam-cho-dong-bao-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui-nham-huong-toi-phat-trien-ben-vung.htm, truy cập ngày 19/9/2023.
4.Quyết định số 90/QĐ-Ttg, ngày 18/1/2022, “Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025”.
5. Lã Minh Tuyến, Nguyễn Thị Thùy Linh, “Chính sách đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay và một số hàm ý chính sách”. https://donghanhviet.vn/chinh-sach-dao-tao-nghe-va-giai-quyet-viec-lam-cho-dan-toc-thieu-so-o-viet-nam-hien-nay-mot-so-ham-y-chinh-sach/. Truy cập, 290/9/2023.
6. Ủy ban Dân tộc – Tổng cục Thống kê: Kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế – xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2020.
7. Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ, Kế hoạch số 3036/KH-UBND về việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2025.