Thứ Hai, Tháng Năm 6, 2024
* Email: bbt.dongnama@gmail.com *Tòa soạn: 0989011688 - 0768908888
spot_img

Tầm quan trọng của việc nghiên cứu quản lý phát triển xã hội trong điều kiện chuyển đổi số ở vùng Đông Nam Bộ gắn với thực hiện Nghị quyết 24 của Bộ Chính Trị

ĐNA -

Tầm quan trọng của việc nghiên cứu quản lý phát triển xã hội trong điều kiều kiện chuyển đổi số ở vùng Đông Nam Bộ gắn với triển khai Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 07/10/2022 của Bộ Chính trị

Sự biến đổi nhanh chóng, toàn diện và phức tạp của đời sống xã hội, đặc biệt trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI do tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã và đang đặt ra yêu cầu đổi mới mạnh mẽ công tác lãnh đạo, quản lý của các chủ thể, ở nhiều cấp độ, phạm vi khác nhau.

Từ những năm đầu của thế kỷ XXI, nhiều học giả, nhà nghiên cứu lý luận ở Việt Nam đã bắt đầu dày công tìm tòi, khảo nghiệm và nghiên cứu nhằm cung cấp cơ sở lý luận, căn cứ thực tiễn phục vụ nhu cầu cấp thiết đó, trong đó có quản lý phát triển xã hội. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (2016), lần đầu tiên thuật ngữ này chính thức được đưa vào Văn kiện và tiếp tục được khẳng định, phát triển tại Đại hội lần thứ XIII (2021). Theo đó, quản lý phát triển xã hội là sự tác động có định hướng, có tổ chức của chủ thể quản lý đến khách thể (con người, cộng đồng, các quan hệ xã hội, hoạt động xã hội,…) nhằm mục tiêu phát triển bền vững. Sự kiện này đã đánh dấu mốc mới trong đổi mới tư duy lý luận và coi trọng đúc kết thực tiễn không ngừng của Đảng nhằm hoàn thiện phương thức hoạt động của hệ thống chính trị.

Kế đến, với tác động đa chiều, phức tạp, công nghệ số cùng quá trình chuyển đổi đã và đang tác động liên tục (cả tích cực và tiêu cực) đến mọi phương diện của đời sống xã hội, làm xuất hiện nhiều vấn đề xã hội mới, chưa có tiền lệ; đồng thời làm phức tạp hơn các vấn đề xã hội đã có trước đó nay tồn tại trong bối cảnh mới – chuyển đối số. Trong khi đó, cách tư duy, tiếp cận, phương thức, công cụ điều hành nhằm giải quyết các hệ vấn đề xã hội cũ và mới này của các chủ thể có phần bị động so với yêu cầu và biến đổi nhanh chóng của thực tiễn. Điều này ảnh hưởng lớn hiệu lực, hiệu quả vận hành của hệ thống chính trị, công tác quản trị quốc gia và mục tiêu phát triển bao trùm và bền vững đất nước. Từ đó cho thấy, việc can thiệp, giải quyết các vấn đề này trong không gian xã hội mới gắn với quá trình chuyển đổi số bằng công cụ quản lý phát triển xã hội có tính cấp thiết.

Đông Nam Bộ là khu vực phát triển năng động bậc nhất của Việt Nam, là “cái nôi” với nhiều địa phương tiên phong trong đổi mới, sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ mới không chỉ trong sản xuất, thương mại mà còn trong lãnh đạo, quản lý. Các mô hình, đề án đô thị thông minh, thành phố thông minh, trung tâm đổi mới sáng tạo cũng từ đây mà khởi phát. Không khí đổi mới phương thức, phương tiện hướng đến cải thiện hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước, xây dựng chính quyền điện tử hướng đến chính quyền số ở các địa phương ngày càng diễn ra sôi nổi.

Thực tế cho thấy, quá trình lãnh đạo, điều hành cũng như đổi mới, phát triển kinh tế – xã hội của khu vực Đông Nam Bộ luôn phải nhận diện, thích ứng với hàng loạt các vấn đề xã hội phức tạp nảy sinh. Đó là các vấn đề truyền thống, phi truyền thống, các vấn đề đã có và hệ vấn đề mới phát sinh, nhất là từ sự phát triển mạnh mẽ của kỷ nguyên số, của cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và quá trình chuyển đổi số. Những năm qua, cùng với các tỉnh, thành phố khác của cả nước, các địa phương của khu vực Đông Nam Bộ đã có nhiều nỗ lực tìm kiếm mô hình mới, cách làm hay và phù hợp và mạnh dạn thí điểm cải cách, đổi mới mạnh mẽ tư duy và cách thức lãnh đạo, quản lý cho phù hợp hơn với tính chất phức tạp, khó lường của biến đổi xã hội và yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Trong khi đó, Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 07/10/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã xác định mục tiêu đến năm 2030: “Đông Nam Bộ trở thành vùng phát triển năng động, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, động lực tăng trưởng lớn nhất cả nước;… Đi đầu trong đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển đổi số, xây dựng chính quyền số, kinh tế số, xã hội số. Phát triển nhanh hệ thống đô thị thông minh và hiện đại…. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội, giáo dục – đào tạo, y tế phát triển đứng đầu cả nước…. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân được cải thiện rõ nét và dẫn đầu cả nước, v.v”. Về logic, để hoá giải các thách thức mới nổi của vùng trong bối cảnh chuyển đổi số, việc nghiên cứu, phân tích và tổng kết thực tiễn vận động của quản lý phát triển xã hội với tư cách là cách tiếp cận, phương thức mới giải quyết hệ vấn đề xã hội trong tiến trình chuyển đổi số và tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ 4 gắn hiện thực hoá tầm nhìn phát triển của vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, 2045 (nhất là ở lĩnh vực xã hội) như Nghị quyết số 24-NQ/TW là cần thiết.

Từ đó, báo cáo này phân tích, đánh giá một cách tương đối khái quát, thực chứng về hiện thực quản lý phát triển xã hội trong bối cảnh chuyển đổi số mà thành tựu, tồn tại và thách thức của nó được thể hiện ở 6 nhóm lĩnh vực cụ thể: (1). Giảm nghèo bền vững; (2). Bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân; (3). Giáo dục và đào tạo; (4). Bình đẳng giới; (5). An toàn xã hội và an ninh con người và (6). Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước qua tiêu chí: chủ thể tham gia; phương thức, công cụ quản lý; nội dung thực hiện và kết quả đạt được, v.v. Kế đến, báo cáo tập trung xây dựng một số hàm ý và kiến nghị chính sách để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý phát triển xã hội trong bối cảnh chuyển đổi số của vùng Đông Nam Bộ gắn với thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW thời gian tới.

Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu phân tích
Báo cáo này chủ yếu được xây dựng dựa trên kết quả Đề tài khoa học cấp Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, chủ đề: “Quản lý phát triển xã hội trong điều kiện chuyển đổi số quốc gia tại khu vực Đông Nam Bộ hiện nay” (mã số: B.21-05). Trong 2 năm (2021 – 2022), nhóm nghiên cứu đã khảo sát 880 cán bộ, công chức, viên chức có, không có chức vụ trong hệ thống chính trị cấp huyện, cấp xã và người dân, doanh nghiệp; thực hiện 36 cuộc phỏng vấn sâu với 2 nhóm đối tượng này tại Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương và tỉnh Tây Ninh. Việc chọn 3 địa phương này làm điểm nghiên cứu bởi từ năm 2018 đến nay, kết quả Chỉ số ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam (Vietnam ICT Index) và Chỉ số chuyển đổi số cấp tỉnh (DTI) của các tỉnh, thành này có thứ hạng khá tốt và liên tục cải thiện so với các địa phương còn lại trong nội vùng .

Ngoài ra, để tăng tính đại diện, một số dữ liệu, thông tin từ hệ thống văn kiện của Trung ương Đảng, đại hội đảng bộ các tỉnh, thành Đông Nam Bộ nhiệm kỳ 2020 – 2025, hệ thống văn bản chính sách, văn bản quy phạm pháp luật cũng như các báo cáo đánh giá của các bộ, ngành và tổ chức tư vấn quốc tế, v.v đã được cập nhật, sử dụng và phân tích.

Một số phát hiện quan trọng được khái quát từ thực tiễn nghiên cứu tại các tỉnh, thành phố vùng Đông Nam Bộ và hàm ý chính sách

Nhận thức của CBCC và người dân về quản lý phát triển xã hội gắn với bối cảnh chuyển đổi số
Nghiên cứu cho thấy, nhận thức và hiểu biết của cán bộ, công chức, viên chức cũng như người dân – hai chủ thể căn bản của quản lý phát triển xã hội về tiến trình chuyển đổi số là khá tốt. Điều này có cơ sở khi những năm gần đây, chỉ sổ đổi mới sáng tạo, số lượng thuê bao và người dùng Internet cũng như công nghệ số của Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ. Các địa phương Đông Nam Bộ, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương và Tây Ninh luôn có thứ hạng cao về chỉ số ứng dụng công nghệ thông tin và đổi mới sáng tạo của quốc gia, là nơi tiên phong thí điểm nhiều mô hình, sáng kiến về đổi mới sáng tạo, hiện đại hoá nền hành chính cũng như mạnh dạn ứng dụng công nghệ số trong các phương diện của đời sống xã hội. Tuy vậy, nghiên cứu cũng cho thấy, nhận thức và hiểu biết của 2 nhóm khách thể này thấp và chưa tốt, chẳng hạn ở các tiêu chí về xây dựng “chính phủ khởi tạo” và “xã hội siêu thông minh (xã hội 5.0)”. So với chủ đề khác về chuyển đổi số thì nhóm chủ đề này vẫn còn khá mới mẻ, phức tạp cả về lý luận và thực tiễn ở Việt Nam và trên thế giới dù có liên quan, tác động chặt chẽ đến quản lý phát triển xã hội ở tầm quốc gia và địa phương.

Nghiên cứu cũng khảo nghiệm mức độ nhận thức và hiểu biết về chuyển đổi số của cán bộ, công chức, viên chức các địa phương vùng Đông Nam Bộ. Qua khảo sát, nhìn chung họ có nhận thức và hiểu biết tốt về “quản lý phát triển xã hội”, “quản lý phát triển xã hội trong bối cảnh chuyển đổi số”, bao gồm nhiều vấn đề đòi hỏi sự tư duy, phân định ở mức độ cao về nhận thức khoa học và thực tiễn áp dụng quản lý phát triển xã hội gắn với bối cảnh số. Tuy vậy, nhận thức và hiểu biết của đội ngũ này không phải là không có vấn đề. Chẳng hạn, không nắm rõ thời điểm thuật ngữ “quản lý phát triển xã hội” được chính thức đưa vào Văn kiện của Đảng, nhận thức chưa chuẩn một số đặc trưng căn bản của quản lý phát triển xã hội so với quản lý nhà nước hay quản lý xã hội thuần tuý, v.v.

Thực tiễn nghiên cứu về nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức và người dân một số địa phương vùng Đông Nam Bộ đối với tiến trình chuyển đổi số và quản lý phát triển xã hội trong bối cảnh số gợi mở một số hàm ý: (i). Cần chú trọng hơn đào tạo và bồi dưỡng trong cán bộ, công chức, viên chức và đẩy mạnh truyền thông bằng hình thức phù hợp, hiệu quả hơn nữa trong các tầng lớp nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp về chuyển đổi số và quản lý phát triển xã hội trong kỷ nguyên số. Tận dụng thành tựu cách mạng công nghiệp lần thứ 4, chuyển đổi số, qua môi trường số (ví dụ: nền tảng học trực tuyến mở đại trà – OneTouch, hay MOOCs, v.v) để tập huấn, bồi dưỡng, phục vụ truyền thông trở lại cho các nhóm chủ thể này; (ii). Nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cần gắn chặt với đổi mới hình thức, nội dung học tập, sinh hoạt chính trị của Đảng, với việc thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cách mạng công nghiệp lần thứ 4, Chương trình cải cách nền hành chính nhà nước và Chiến lược chuyển đổi số quốc gia đến năm 2030.

Hiện trạng và hàm ý chính sách về quản lý phát triển xã hội gắn với bối cảnh chuyển đổi số trên 6 lĩnh vực nghiên cứu cụ thể
Về tổng thể, các địa phương được nghiên cứu ở vùng Đông Nam Bộ có nhiều tiềm năng và đã huy động sự tham gia của nhiều chủ thể, đa dạng phương thức, công cụ, trong đó có chú ý tận dụng thành tựu của CMCN4, công nghệ số vào quá trình quản lý phát triển xã hội trên 6 lĩnh vực gồm: (1). Giảm nghèo bền vững; (2). Bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân; (3). Giáo dục và đào tạo; (4). Bình đẳng giới; (5). An toàn xã hội và an ninh con người và (6). Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Đáng chú ý, các ý kiến đối chứng giữa người dân và cán bộ, công chức, viên chức, nhìn chung là thống nhất, có đánh giá tích cực đối với việc quản lý 6 lĩnh vực này.

Tuy vậy, quản lý phát triển xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương và Tây Ninh cần chú ý đến hiệu lực, hiệu quả quản lý phát triển xã hội ở lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân và giáo dục và đào tạo để thích ứng an toàn, linh hoạt với giai đoạn hậu COVID-19 cũng như chuẩn bị nguồn nhân lực số, cải thiện chất lượng dân số phục vụ quá trình phát triển bền vững vùng, địa phương trong bối cảnh chuyển đổi số. Các phân tích, kiểm định thống kê cũng cho thấy, giải quyết tốt hệ vấn đề xã hội, đảm bảo mục tiêu tiến bộ, công bằng hướng đến phát triển bao trùm cần chú ý đến các nhóm xã hội đặc thù, yếu thế, qua đó góp phần giảm dần hố sâu khoảng cách, tách biệt và bất bình đẳng xã hội. Từ đây, một số hàm ý chính sách được nhóm nghiên cứu đề xuất để cải thiện hiệu lực, hiệu quả quản lý phát triển xã hội, đáng chú ý là góp phần thực hiện tốt các nhóm mục tiêu ở lĩnh vực xã hội được nêu tại Nghị quyết số 24-NQ/TW về phát triển vùng Đông Nam Bộ trong tiến trình chuyển đổi số, cụ thể như sau:

Trong lĩnh vực giảm nghèo bền vững: Nói như chuyên gia Kinh tế trưởng của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) rằng: “Người nghèo và người dễ tổn thương bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi COVID-19, và trong khi các nền kinh tế đang phục hồi, rất nhiều người có thể nhận thấy rằng việc thoát nghèo thậm chí còn khó khăn hơn trước kia. Các chính phủ trong khu vực cần tập trung vào khả năng chống chịu, đổi mới sáng tạo và tính bao trùm để cung cấp cơ hội kinh tế đồng đều hơn và sự dịch chuyển xã hội lớn hơn cho tất cả mọi người”. Nhận định này cùng với kết quả nghiên cứu hàm ý rằng, quản lý phát triển xã hội cần huy động đa nguồn lực, đa chủ thể hơn nữa để cải thiện khả năng tiếp cận giải quyết nhu cầu về việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp và nhà ở cho người dân. Trong bối cảnh hậu COVID-19, hàm ý này càng có ý nghĩa đối với các tỉnh, thành vùng Đông Nam Bộ vốn là trung tâm công nghiệp, tập trung nhiều lao động nhập cư. Mặt khác, cần tiếp tục củng cố, cải thiện các kênh truyền thông truyền thống và đầu tư nâng cấp, đa dạng hơn các kênh truyền thông số, truyền thông xã hội để chuyển tải kịp thời, thông suốt, dễ tiếp cận chính sách giảm nghèo, trợ cấp xã hội đến người dân.

Đặc biệt, trong quá trình quản lý ở lĩnh vực này, các chủ thể quản lý ở địa phương cần chú ý đến nhóm dân cư là phụ nữ, sống khu vực nông thôn, việc làm không ổn định/ thất nghiệp, lao động phi chính thức, ít hoặc không tham gia đoàn thể, v.v. để giảm thiểu các “gánh nặng kép”, “bất bình đẳng số” khi tham gia thị trường lao động. Nhóm lao động “cổ xanh” (lao động làm việc trong các ngành công nghiệp) khá phổ biến của vùng cần được trang bị kỹ năng của thế kỷ XXI (khả năng suy luận, tư duy logic, kỹ năng toán học, giải quyết vấn đề, kỹ năng số, kỹ năng thích ứng, v.v.), để không bị loại trừ và sẵn sàng tham gia thế giới việc làm trong kỷ nguyên số.

Ngoài ra, quản lý phát triển xã hội trong lĩnh vực giảm nghèo bền vững cần chú ý phải giải quyết các vấn đề cũ và vấn đề mới phát sinh liên quan đến nghèo đói vốn chưa có tiền lệ trong bối cảnh số. Hàng loạt các vấn đề như tự động hoá lao động; cạnh tranh tuyển dụng, cơ hội việc làm giữa con người và trí tuệ nhân tạo (AI); nguy cơ lạc hậu tay nghề, trình độ, kỹ năng của người lao động so với xu hướng phát triển của công nghệ số; khả năng, cơ hội tiếp cận công nghệ số để giải quyết nhu cầu lao động, việc làm hay quá trình “giải công nghiệp hoá” (de-industrialization), v.v. Từ đó, quản lý phát triển xã hội ở lĩnh vực này cần tiên lượng; từ đó giúp xây dựng tầm nhìn, chủ trương, chiến lược, chính sách và kế hoạch hành động cụ thể vừa quản lý linh hoạt, thích ứng tốt vừa từng bước dẫn dắt, xây dựng nguồn nhân lực, lực lượng lao động số và thị trường việc làm bền vững.

Trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân: Thực tiễn nghiên cứu tại các tỉnh, thành khu vực Đông Nam Bộ cho thấy, quản lý phát triển xã hội cần sớm đầu tư dài hạn, bài bản việc tận dụng thành tựu cách mạng công nghiệp lần thứ 4, vai trò của chuyển đổi số để chăm sóc sức khoẻ toàn dân, nhất là nhóm xã hội đặc thù như trẻ em, người già, người có hoàn cảnh khó khăn thích ứng tốt hơn với các biến đổi xã hội nhanh chóng. Để thành công, cần chú ý: (i). đầu tư nhân lực số, công nghệ số phù hợp; (ii). có chính sách giảm thiểu “khoảng cách số” ở các nhóm dễ tổn thương; (iii). đẩy mạnh chuyển đổi số trong lĩnh vực y tế: thúc đẩy dịch vụ chăm sóc y tế từ xa (telehealth); tăng cường sử dụng hồ sơ bệnh án điện tử – nền tảng để chuyển đổi sang nền y tế số; tăng cường sử dụng các công nghệ số để cung cấp dịch vụ y tế có chất lượng cho các nhóm yếu thế, v.v.

Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo: Kết quả nghiên cứu cho thấy: Mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo tuy từng bước xây dựng theo hướng bao phủ nhưng các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng về tin học, ngoại ngữ; trường đào tạo nghề; các trường đại học, cao đẳng của địa phương, v.v. chưa được quan tâm đầu tư đúng mức. Ngoài ra, chất lượng và số lượng các cơ sở đào tạo ngoài công lập, trường quốc tế được cán bộ, công chức, viên chức, người dân đánh giá không cao. Kế đến, việc tham gia, phối hợp của các chủ thể khác nhau trong quản lý, giải quyết các vấn đề của giáo dục và đào tạo còn nhiều hạn chế như vai trò của các hội khuyến học, khuyến tài; mối liên kết giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp còn khá lỏng lẻo.

Do đó, quản lý phát triển xã hội cần chú trọng duy trì và phát huy giá trị tích cực đối với lĩnh vực này: truyền thống coi trọng việc học, tinh thần hiếu học, trọng hiền tài, thúc đẩy vai trò của các tổ chức xã hội, phong trào học tập suốt đời, v.v, đầu tư thích đáng cho đội ngũ nhà giáo, nhà quản lý giáo dục, cơ sở hạ tầng và quy hoạch mạng lưới giáo dục. Ngoài ra,  hiệu chỉnh triết lý giáo dục để phù hợp hơn với tồn tại xã hội là nền kinh tế số, xã hội số và chính quyền số đang dần hình thành là việc làm cần thiết, như xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời, học tập liên tục trên Internet, sử dụng tối đa công nghệ hỗ trợ học tập và xem trọng học ngoại ngữ, v.v. Giáo dục và đào tạo phải hình thành phẩm chất công dân số với lối sống số và khả năng thích ứng, chống chịu trong môi trường đó.

Trong lĩnh vực đảm bảo bình đẳng giới: Klaus Schwab, người sáng lập và Chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế Thế giới đã từng nhận định trong “Báo cáo Khoảng cách Giới toàn cầu 2020” rằng: “Nếu không có sự bao gồm đồng đều của một nửa dân số thế giới, chúng ta sẽ không thể thực hiện lời hứa về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cho tất cả xã hội, phát triển nền kinh tế của chúng ta vì sự thịnh vượng chung hoặc đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc”. Nghiên cứu tại một số địa phương vùng Đông Nam Bộ cho thấy, một số khía cạnh bình đẳng giới và quản lý phát triển xã hội đối với bình đẳng giới được cán bộ, công chức, viên chức đánh giá tốt. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với chuyển biến tích cực về nhận thức đối với các vấn đề xoay quanh bình đẳng giới của đội ngũ quản lý – cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị và chủ thể đồng tham gia – người dân và cộng đồng xã hội; đồng thời là minh chứng về một Việt Nam nỗ lực bền bỉ thực hiện cam kết với quốc tế về đảm bảo quyền phụ nữ và bình đẳng giới trên các phương diện.

Tuy vậy, kết quả khảo sát và phân tích cũng hàm ý, quản lý phát triển xã hội cần chú ý đa dạng và phát huy hơn vai trò của các chủ thể phi nhà nước (hội đoàn, mô hình câu lạc bộ, đội, nhóm xã hội, gia đình, dòng tộc, v.v…) cùng chủ thể nhà nước hỗ trợ, can thiệp thúc đẩy bình đẳng giới. Tận dụng công nghệ số để can thiệp trở lại, giải quyết rủi ro về bất bình đẳng giới, thực hiện chính sách về giới nhưng cũng chú ý đảm bảo an toàn, an ninh cho phụ nữ, trẻ em trước các tác động tiêu cực từ môi trường mạng và trong thế giới số.

Trong lĩnh vực an toàn xã hội và an ninh con người: Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta yêu cầu phải “đảm bảo an toàn xã hội, an ninh con người”. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII nhấn mạnh: “Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người” . Trong kỷ nguyên số và quá trình chuyển đổi số hiện nay, hàng loạt các vấn đề mới, thậm chí chưa có tiền lệ đã và đang xuất hiện, đe doạ trực tiếp đến an ninh, an toàn cá nhân và xã hội. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, khả năng quản lý, ứng phó của các chủ thể hữu quan ở vùng Đông Nam Bộ là chưa tốt. Đáng chú ý là việc bảo vệ quyền riêng tư của công dân trên không gian mạng; phòng, chống tin tặc, tin giả, tin xấu độc, kích động chống phá, gây bất ổn an ninh chính trị, bình yên cuộc sống, hay tổ chức lừa đảo, tệ nạn xã hội trên Internet; tội phạm công nghệ cao chưa được kiểm soát tốt; việc bảo vệ con người khỏi các vụ tấn công, xâm hại, cưỡng bức, dụ dỗ trên không gian mạng, v.v.

Quản lý phát triển xã hội hiện nay có không gian, đối tượng, khách thể quản lý không bó hẹp trong thế giới thực (vật lý) mà còn mở rộng cả ra trên không gian số, thế giới ảo. Do vậy, cần chú ý hoàn thiện hệ thống pháp lý, công cụ kỹ thuật, đội ngũ nhân sự, v.v để đủ sức quản lý, đảm bảo an ninh, an toàn cho các tương tác, quan hệ xã hội trong không gian số: bảo mật dữ liệu cá nhân, an toàn tài chính, văn hoá trong không gian số, tội phạm công nghệ cao, “nhiễu” thông tin trên mạng xã hội.

Trong lĩnh vực đảm bảo hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước: Đây chính là cách tiếp cận mới của bài viết nhằm đi giải quyết từ gốc cho quá trình quản lý phát triển xã hội trong bối cảnh chuyển đổi số. Thực tế cho thấy, trong nhiều trường hợp, việc quản lý kém hiệu quả, hiệu lực thực thi các quyết sách chính trị, quyết định chính sách yếu ớt, thiếu liêm chính hay sai phạm, tiêu cực, tham nhũng, quan liêu, tính hiện đại hoá thấp của bộ máy quản lý và đội ngũ nhân sự trong khu vực công, v.v. chính là rào cản, trở lực, vấn đề xã hội lớn đối với tiến trình quản lý phát triển xã hội quốc gia và địa phương.

Kết quả nghiên cứu tại một số tỉnh, thành vùng Đông Nam Bộ cho thấy, nhiều chiều cạnh phản ánh hiệu lực, hiệu quả quản trị ở các địa phương nhìn chung đã được cán bộ, công chức, viên chức và người dân đánh giá tương đối tốt. Điển hình là việc đảm bảo sự tham gia của người dân thông qua thực thi dân chủ cơ sở, lấy ý kiến rộng rãi nhân dân về các vấn đề quan trọng của địa phương hay bầu cử; đồng thời tăng cường cải cách thủ tục hành chính công như niêm yết công khai hồ sơ, thủ tục hay tiếp nhận, giải quyết thủ tục tại bộ phận một cửa. Ngoài ra, khả năng cung ứng một số dịch vụ công cơ bản cho nhu cầu xã hội như giáo dục mầm non và tiểu học, dịch vụ y tế tại trạm y tế và bệnh viện công, hạ tầng cơ bản như điện, đường, nước sạch, công viên, mảng xanh, v.v cũng được đánh giá tốt.

Tuy vậy, thời gian tới, để cải thiện hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước và gia tăng sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp đối với quá trình này, cần thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc cải cách nền hành chính trên các trụ cột, chú trọng hơn trụ cột “hiện đại hoá” nền hành chính quốc gia gắn với triển khai các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trong Đề án chuyển đổi số quốc gia do Thủ tướng ban hành đến năm 2025, tầm nhìn năm 2030. Cốt lõi là xây dựng nền quản trị quốc gia đủ mạnh, hiệu quả, được số hoá, tích hợp, hiện đại và đồng bộ để tương thích với sự biến chuyển mang tính quy luật của xã hội số, xã hội siêu thông minh (xã hội 5.0) và sự vận hành của nền kinh tế số.

Phát triển xã hội trong điều kiều kiện chuyển đổi số ở vùng Đông Nam Bộ gắn với triển khai Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 07/10/2022 của Bộ Chính trị

Một số kiến nghị chính sách
Đối với Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng
– Sắp tới, Bộ Chính trị trên cơ sở kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 kịp thời ban hành Kết luận về việc tiếp tục thực hiện một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Từ thực tiễn thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW và hơn 7 năm quán triệt quan điểm quản lý phát triển xã hội, trong kết luận, Bộ Chính trị cần tiếp tục nhấn mạnh, bổ sung và quán triệt xuyên suốt các nội dung sau:

+ Bổ sung “Nhận định bối cảnh và đánh giá tình hình”: Quán triệt việc thực hiện quản lý phát triển xã hội cần đặc biệt chú ý đặt sự vận hành của nó trong mối tương quan chặt chẽ với tiến trình chuyển đổi số quốc gia, công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước và ba chương trình mục tiêu quốc gia của Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030.

+  Bổ sung “Quan điểm chỉ đạo”: Quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam mà trọng tâm là giải quyết hệ các vấn đề xã hội ở tầm quốc gia và địa phương trong kỷ nguyên số cần thống nhất với tầm nhìn, triết lý phát triển đất nước – triển bền vững, thịnh vượng và bao trùm, nhân văn và hiện đại, không ai bị bỏ lại phía sau. Ngoài ra, trong quá trình triển khai các nội hàm, nội dung, phương thức quản lý phát triển xã hội gắn với bối cảnh số và quán triệt Nghị quyết 52-NQ/TW, Kết luận kỳ này cần đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải lưu ý nhận diện đầy đủ, sâu sắc các vấn đề xã hội mới nổi khi tham gia sâu, mạnh mẽ vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 như: “bất bình đẳng số”, “gánh nặng số” và tách biệt số”, nhất là ở các nhóm thiểu số, yếu thế; từ đó có các định hướng vĩ mô giải quyết hữu hiệu các thách thức mới nổi này.

+ Kết luận về Nghị quyết 52-NQ/TW cần quan tâm, làm bật nổi sự cần thiết của việc nghiên cứu, xây dựng và ban hành hệ thống phản ứng chính sách quốc gia gắn với triển khai nội hàm, cơ chế quản lý phát triển xã hội nhằm nhận diện kịp thời, thích ứng và kiểm soát có hiệu quả các tác động tiêu cực, vấn đề mới chưa có tiền lệ của cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và tiến trình chuyển đổi số.

– Chỉ đạo tỉnh uỷ, thành uỷ của các tỉnh, thành phố vùng Đông Nam Bộ tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý phát triển xã hội trong bối cảnh chuyển đổi số gắn với việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các địa phương, nhiệm kỳ 2020 – 2025. Đặc biệt, chỉ đạo các địa phương trong vùng lưu ý nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý phát triển xã hội gắn với giải quyết tốt quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm về hoàn thiện thể chế, chính sách đối với lĩnh vực văn hoá, xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân, đảm bảo vững chắc quốc phòng, an ninh, v.v đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 mà Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 07/10/2022 của Bộ Chính trị đã đề ra.

Đối với Bộ Nội vụ, Ban Tổ chức Trung ương và Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Các cơ quan này cần phối hợp, nghiên cứu, biên soạn tài liệu, thiết kế khung chương trình tổng thể lồng ghép đưa nội dung về chuyển đổi số, thích ứng trong kỷ nguyên số gắn với quản lý phát triển xã hội vào khung chương trình bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức hiện hành. Nội dung sát hạch phù hợp từng vị trí việc làm, chức danh, chức vụ và bám sát chuẩn khung năng lực, tránh chồng chéo và đảm bảo tính hệ thống, khoa học và liên thông, cụ thể:

– Bộ Nội vụ thống nhất triển khai tổ chức chương trình tập huấn, bồi dưỡng, tuyển dụng công chức, viên chức (phù hợp với vị trí ứng tuyển) về chuyển đổi số, quản lý phát triển xã hội trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia và thống nhất hình thức, nội dung đánh giá, sát hạch. Đối với quá trình tuyển dụng, chú ý đưa các nội dung này vào nội dung thi tuyển, ôn tập. Đối với quá trình bồi dưỡng, tập huấn, chú trọng thời lượng thảo luận, thực hành, chia sẻ kinh nghiệm giữa báo cáo viên và người học. Việc đánh giá, sát hạch gắn với nội dung, công việc thực tế của công chức, viên chức và việc vận dụng tri thức về chuyển đổi số, quan điểm quản lý phát triển xã hội tương ứng từng vị trí việc làm.

– Bộ Nội vụ yêu cầu Học viện Hành chính quốc gia cần sớm nghiên cứu, thiết kế, lồng ghép các nội dung chuyển đổi số, về quản lý phát triển xã hội; Quản lý phát triển xã hội trong điều kiện chuyển đổi số quốc gia trong các môn học đại cương; trở thành môn học chuyên ngành và là môn học khuyến khích được lựa chọn trong chương trình đào tạo cử nhân quản lý nhà nước cũng như các hệ đào tạo sau đại học. Đây là bước chuẩn bị từ xa, từ sớm về đội ngũ cán bộ công chức, viên chức chính quy, có năng lực số phục vụ cho tiến trình xây dựng chính phủ số và chính quyền số.

– Ban Tổ chức Trung ương và Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh sớm nghiên cứu, xin ý kiến Bộ Chính trị, Ban Bí thư về việc xây dựng hệ thống tài liệu, bổ sung bài học/ chuyên đề về chuyển đổi số quốc gia, quản lý phát triển xã hội trong bối cảnh chuyển đổi số đối với 19 môn học bắt buộc và tự chọn của Chương trình cao cấp lý luận chính trị hiện hành. Đối với các hệ bồi dưỡng chức danh cấp uỷ cấp huyện (và tương đương); quy hoạch dự nguồn ban chấp hành các tỉnh, thành uỷ; bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với Uỷ viên dự khuyết, chính thức Ban Chấp hành Trung ương, v.v., Ban Tổ chức Trung ương và Học viện tiếp tục nghiên cứu, bổ sung các nội dung này hợp lý vào các chương bồi dưỡng, tập huấn./.

TS. Bùi Nghĩa, TS. Trần Văn Huấn, Th.S Nguyễn Quốc Cường & Th.S. Hồ Thức Tài/Học viện Chính trị khu vực II

Tài liệu tham khảo:
Minh Anh (2022), “Đại dich COVID-19 làm cho việc thoát nghèo khó khăn hơn”, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, đường dẫn truy cập: https://dangcongsan.vn/xa-hoi/dai-dich-covid-19-lam-cho-viec-thoat-ngheo-kho-khan-hon-618072.html

Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Uỷ ban Dân tộc, Tổng cục Thống kê & UNDP tại Việt Nam (2020), Thúc đẩy giảm nghèo nhanh và bền vững theo mọi chiều cạnh và mọi nơi ở Việt Nam: Báo cáo nghèo đa chiều Việt Nam, HN, tr. 44-45.
Bộ Thông tin và Truyền thông (2020), “Thông tin đánh giá và xếp hạng chuyển đổi số”, Trang thông tin điện tử Cục Tin học hoá (Bộ Thông tin và Truyền thông), đường dẫn truy cập: https://dti.gov.vn/
Bộ Thông tin và Truyền thông. (2021), “Báo cáo Vietnam ICT Index”, TTĐT Bộ TTTT, đường dẫn truy cập: https://mic.gov.vn/solieubaocao/Pages/TinTuc/143252/Bao-cao-Vietnam-ICT-Index.html
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Văn phòng Trung ương Đảng, HN, tr. 135.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, t.1, NXB. Chính trị quốc gia sự thật, HN, tr. 114, 116, 147.
Hội đồng Lý luận Trung ương (2021), Những điểm mới trong các văn kiện Đại hội XIII của Đảng, NXB. Chính trị quốc gia sự thật, HN, tr.178-179.
Trần Văn Huấn & Nguyễn Hữu Hoàng (2023), Quản lý phát triển xã hội trong điều kiện chuyển đổi số quan nghên cứu xã hội học tạu vùng Đông Nam Bộ, Nxb. Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
Phùng Hữu Phú, Nguyễn Văn Đặng, Nguyễn Viết Thông (2016), Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, NXB. Chính trị quốc gia, HN, tr.26
Minh Thiện (2021), “Phát triển công nghệ số để thúc đẩ bìn đẳng giới”, Cổng thông tin Thông tin &Truyền thông (Bộ Thông tin và Truyền thông), đường dẫn truy cập: https://ictvietnam.vn/phat-trien-cong-nghe-so-de-thuc-day-binh-dang-gioi-20211028080739751.htm