Một phân tích về bằng chứng thực tế đã xác định được 17 loại thuốc, trong đó có nhiều loại trước đây không được coi là có khả năng gây độc cho gan, có tỷ lệ bệnh nhân nhập viện do tổn thương gan cấp tính (Acute Liver Injury – ALI) cao, đưa ra thông tin chi tiết về cách làm thế nào để xác định tốt hơn loại thuốc nào gây nguy cơ đáng kể nhất cho gan và cần thiết theo dõi gan.
Phương pháp:
Không có cách tiếp cận có hệ thống để phân loại nguy cơ nhiễm độc gan của thuốc, các nhà nghiên cứu đã sử dụng các báo cáo ca bệnh được công bố trên LiverTox của Viện Y tế Quốc gia, không tính đến số người bị phơi nhiễm, để phân loại khả năng gây ALI của thuốc. Mục tiêu là xác định các loại thuốc có khả năng gây độc cho gan cao nhất bằng cách sử dụng tỷ lệ mắc ALI nghiêm trọng trong thực tế.
Các nhà nghiên cứu đã phân tích dữ liệu hồ sơ sức khỏe điện tử của Bộ Cựu chiến binh Hoa Kỳ cho gần 7,9 triệu cá nhân (tuổi trung bình là 64,4 tuổi; 92,5% là nam giới) không có bệnh gan hoặc bệnh đường mật từ trước, những người được bắt đầu điều trị ngoại trú bằng bất kỳ loại thuốc nào trong số 194 loại thuốc có bốn hoặc nhiều báo cáo về độc tính trên gan đã được công bố. Các loại thuốc tiêm hoặc tiêm truyền tĩnh mạch, đã được kê đơn để điều trị chứng rối loạn sử dụng rượu hoặc bệnh gan, hoặc được sử dụng như thuốc chống đông máu thì không được đưa vào nghiên cứu này.
Kết quả chính được đo lường là nhập viện do ALI nặng, được xác định bởi nồng độ alanine aminotransferase > 120 U/L và nồng độ bilirubin toàn phần > 2,0 mg/dL hoặc tỷ lệ chuẩn hóa quốc tế ≥ 1,5 và nồng độ bilirubin toàn phần > 2,0 mg/dL trong vòng 2 ngày đầu tiên nhập viện.
Các nhà nghiên cứu đã sắp xếp các loại thuốc thành các nhóm dựa trên tỷ lệ quan sát được của ALI nghiêm trọng trên 10.000 người-năm và phân loại các loại thuốc có 10 lần nhập viện trở lên (nhóm 1) và 5-9,9 lần nhập viện (nhóm 2) là thuốc có khả năng gây độc cho gan cao nhất. Thời gian nghiên cứu là từ tháng 10 năm 2000 đến tháng 9 năm 2021.
Loại trừ:
Trong số đối tượng nghiên cứu, 1739 ca nhập viện vì ALI nghiêm trọng đã được xác định. Tỷ lệ mắc ALI nghiêm trọng thay đổi rất nhiều tùy theo loại thuốc sử dụng, từ 0 đến 86,4 ca trên 10.000 người-năm.
17 loại thuốc được phân loại là có khả năng gây độc cho gan cao nhất (nhóm 1 và nhóm 2). 7 loại thuốc trong số đó (stavudine, erlotinib, lenalidomide hoặc thalidomide, chlorpromazine, metronidazole, prochlorperazine và isoniazid) có tỷ lệ mắc bệnh ≥ 10 ca trên 10.000 người-năm. 10 loại thuốc khác (moxifloxacin, azathioprine, levofloxacin, clarithromycin, ketoconazole, fluconazole, captopril, amoxicillin-clavulanate, sulfamethoxazole-trimethoprim và ciprofloxacin) cho thấy tỷ lệ mắc bệnh là 5-9,9 ca trên 10.000 người-năm.
Trong số 17 loại thuốc gây độc gan nhiều nhất, có 11 loại (64%) đã không được phân loại là có độc tính cao đối với gan trong các báo cáo ca bệnh được công bố, điều này cho thấy sự khác biệt giữa dữ liệu thực tế và phân loại trong báo cáo ca bệnh.
Tương tự như vậy, một số loại thuốc, bao gồm một số thuốc statin, được xác định là có nguy cơ thấp trong nghiên cứu này nhưng lại được phân loại là thuốc gây độc cho gan nhiều nhất trong các báo cáo ca bệnh đã công bố.
Thực tế:
“Phân loại độc tính gan dựa trên số lượng báo cáo ca bệnh đã công bố không phản ánh chính xác tỷ lệ quan sát được của ALI nghiêm trọng (tổn thương gan cấp tính)”, các nhà nghiên cứu viết. “Nghiên cứu này đại diện cho một phương pháp tiếp cận có hệ thống, có thể tái tạo để sử dụng dữ liệu thực tế nhằm đo tỷ lệ ALI nghiêm trọng sau khi bắt đầu dùng thuốc ở những bệnh nhân không mắc bệnh gan hoặc bệnh đường mật… Những bệnh nhân bắt đầu dùng thuốc có tỷ lệ ALI cao có thể cần theo dõi chặt chẽ hơn các xét nghiệm liên quan đến gan để phát hiện rối loạn chức năng gan tiến triển sớm hơn, điều này có thể cải thiện tiên lượng bệnh”.
Nghiên cứu minh họa tiềm năng sử dụng dữ liệu hồ sơ sức khỏe điện tử để “cách mạng hóa cách chúng ta mô tả các tác động độc hại liên quan đến thuốc”, không chỉ đối với gan mà còn các cơ quan nội tạng khác, Grace Y. Zhang, MD, và Jessica B. Rubin, MD, MPH, của Đại học California, San Francisco, đã viết trong một bài xã luận đi kèm . “Nếu được quản lý và phổ biến hiệu quả… bằng chứng như vậy chắc chắn sẽ cải thiện việc ra quyết định lâm sàng và cho phép tư vấn cho bệnh nhân các thông tin đầy đủ hơn về những rủi ro thực sự khi bắt đầu sử dụng hoặc ngừng dùng thuốc.
Nguồn:
Nghiên cứu do Tiến sĩ Jessie Torgersen, Bác sĩ Y khoa, Thạc sĩ Khoa học Y khoa, Khoa Truyền nhiễm, Trường Y Perelman thuộc Đại học Pennsylvania, Philadelphia đứng đầu đã được công bố trực tuyến trên Tạp chí Y khoa Nội khoa JAMA .(Nguồn: https://www.medscape.com/viewarticle/most-potentially-hepatotoxic-meds-revealed-real-world-data-2024a1000d0o)
Hạn chế:
Các nhà nghiên cứu đã liệt kê một số hạn chế, bao gồm khả năng việc dựa vào các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm để xác định tổn thương gan cấp tính có thể dẫn đến sai lệch giám sát. Nghiên cứu tập trung vào một nhóm dân số chủ yếu bao gồm nam giới không mắc bệnh gan hoặc bệnh đường mật từ trước, do đó, các phát hiện có thể không thể khái quát hóa cho phụ nữ hoặc những người mắc bệnh gan. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu đã không thực hiện đánh giá quan hệ nhân quả của tất cả các kết quả, không nghiên cứu các loại thuốc có ít hơn bốn báo cáo ca bệnh đã công bố và không đánh giá ảnh hưởng của liều lượng.
Nghiên cứu này được tài trợ một phần bởi một số khoản tài trợ từ Viện Y tế Quốc gia. Một số tác giả tuyên bố nhận được các khoản tài trợ và phí cá nhân từ một số cơ quan tài trợ và các nguồn khác bên ngoài công trình này. Bài viết này được tạo ra bằng một số công cụ biên tập, bao gồm AI, như một phần của quy trình. Biên tập viên con người đã xem xét nội dung này trước khi xuất bản.
Một số loại thuốc gây tổn thương gan
Tổn thương gan do thuốc là một vấn đề khá phổ biến hiện nay, tỷ lệ lên đến 10% trong các phản ứng phụ do thuốc gây ra. Hầu hết các thuốc đều được chuyển hoá tại gan và bài tiết qua mật hoặc nước tiểu. Vì vậy, nếu gan bị suy, chức năng chuyển hoá, giải độc và bài tiết các thuốc cũng bị ảnh hưởng. Sự tích tụ thuốc lâu dần không được chuyển hoá và giải độc gây ngộ độc thuốc và tổn thương gan. Một số loại thuốc gây ngộ độc gan như:
Thuốc giảm đau, hạ sốt Acetaminophen; điều trị loét dạ dày Omeprzole: Gây bệnh viêm gan.
Thuốc giúp tăng trưởng cơ Anabolic steroids, kích thích tố sinh dục Estrogens và androgens, thuốc ngừa thai uống: Gây u gan.
Thuốc điều trị bệnh tâm thần Chlorpromozine (Thorazine): Giả -xơ gan mật nguyên phát.
Thuốc điều trị bệnh viêm loét dạ dày Cimetidine(Tagamet), bệnh máu Coumadin: Gây viêm gan cấp và bệnh đường mật.
Kháng sinh Ciprofloxin: Viêm gan mật.
Thuốc kháng sinh Clindamycin(Cleocin), Metronidazole (Flagyl); thuốc điều trị tâm thần Cocaine; giảm đau Ibuprofen; chống co thắt Phenytoin; điều trị ung thư vú Tamoxifen: Gây bệnh viêm gan cấp.
Thuốc kháng viêm Corticosteroids(Prednisone), kháng sinhTetracycline: Gây gan thấm mỡ.
Kháng sinh Erythromycin estolate và thuốc ức chế miễn dịch Cyclosporine A: Gây bệnh đường mật.
Thuốc ngủ Diazepam (Valium): Viêm gan cấp và bệnh đường mật.
Thuốc gây mê Halothan, giảm đau Salicylates(Aspirin): Viêm gan cấp và mãn.
Thuốc điều trị cao huyết áp Methyldopa(Aldomet): Gây bệnh viêm gan tự miễn.
Thuốc điều trị tiểu đường Rosiglitazone(Avandia): Gây suy gan.
Thuốc chống lao như isoniazid, rifampicin, streptomycin, isoniazid (INH): Gây ngộ độc cho gan.
Thuốc Nam, Bắc: Ngộ độc thuốc Nam, thuốc Bắc gây tổn thương gan nặng thậm chí suy gan cấp có thể dẫn đến tử vong.
Thuốc tẩy giun: Gây viêm gan khi sử dụng liều cao, kéo dài.
Đinh Hoàng An