Thứ tư, Tháng mười một 20, 2024
* Email: bbt.dongnama@gmail.com *Tòa soạn: 0989011688 - 0768908888
spot_img

Vấn đề hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam hiện nay

ĐNA -

Sự nghiệp đổi mới ở nước ta có tính toàn diện, đồng bộ và là một quá trình đầy khó khăn, phức tạp, đặc biệt trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Giữa hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam và phản bác các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch luôn thống nhất với nhau. Giải quyết các vấn đề trên có tính cấp bách đối với bảo vệ, giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng.

Trong bài: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” đăng lần đầu tiên vào ngày 16/5/2021 trên Báo Nhân dân điện tử, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: Tuy nhiên, CNXH là gì và đi lên CNXH bằng cách nào? Đó là điều mà chúng ta luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn để từng bước hoàn thiện đường lối, quan điểm và tổ chức thực hiện, làm sao để vừa theo đúng quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng

Khái quát quá trình hoàn thiện lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam
Lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là sản phẩm từ trí tuệ sáng tạo của toàn Đảng ta với sự tham gia đóng góp của toàn dân, toàn quân một cách dân chủ. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng và luôn bám sát thực tiễn để khái quát lý luận về mục tiêu, con đường cách mạng Việt Nam. Mỗi Văn kiện, Nghị quyết của Đảng ở các giai đoạn lịch sử có sự khác nhau, nhưng bản chất, nội dung thống nhất với mục tiêu, con đường đi lên CNXH như được khái quát trong tư tưởng Hồ Chí Minh về: Độc lập dân tộc và CNXH.

Đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới, trước những biến động chính trị trên thế giới vô cùng phức tạp, nhưng ngay từ khi khởi xướng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đứng vững trên lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng và kiên định với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Vấn đề này là điều kiện cho những bước sáng tạo trong hoàn thiện lý luận của Đảng. Trong Bài viết của mình, Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Trước đây khi còn Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) thế giới thì vấn đề đi lên CNXH ở Việt Nam dường như không có gì phải bàn, nó mặc nhiên như đã được khẳng định. Nhưng từ khi mô hình CNXH ở Liên Xô và nhiều nước Đông  u sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên CNXH lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt”.

Nghiên cứu quá trình hoàn thiện lý luận, cần nghiên cứu có tính tổng thể, toàn diện và phân tích kỹ lưỡng các vấn đề để thấy rõ những bước vận dụng, cụ thể hóa, bổ sung, phát triển ở từng giai đoạn cụ thể. Vì thế hướng tập trung nghiên cứu luôn tạo sự thống nhất giữa nội dung lý luận trong Cương lĩnh với nội dung ở các Văn kiện của kỳ Đại hội Đảng. Trên cơ sở đó mới có thể thống nhất giữa lý luận chung với những biểu hiện cụ thể ở từng giai đoạn của một nhiệm kỳ. Qua quá trình đổi mới, Đảng ta đã xây dựng được Cương lĩnh năm 1991. Trong đó quan điểm về tính tất yếu sẽ tiến đến CNXH của toàn nhân loại được khẳng định một cách nhất quán. Qua 20 thực hiện Cương lĩnh năm 1991 đến Cương lĩnh (Bổ sung và phát triển) năm 2011 vẫn tiếp tục khẳng định và hoàn thiện một cách sâu sắc, rõ ràng hơn là: “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH”.

Nghiên cứu hai Cương lĩnh năm 1991 và năm 2011, cho thấy Đảng ta không chỉ thể hiện sự kiên định, trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn bổ sung, phát triển lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH phù hợp với tư tưởng về sự phát triển theo tiến trình lịch sử – tự nhiên các hình thái kinh tế – xã hội.

Ngoài nghiên cứu 2 Cương lĩnh, cần nghiên cứu 2 công trình khoa học của Hội đồng Lý luận Trung ương sẽ có nhiều thông tin bổ ích và hiểu rõ hơn quá trình hoàn thiện lý luận của Đảng. Công trình thứ nhất là: “Một số vấn đề lý luận- thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới”. Công trình thứ hai là “30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (TKQĐ) lên CNXH”. Hai công trình này đã có các luận cứ khoa học cả trong và ngoài nước; cả bài học thành công và chưa thành công; đặc biệt là chỉ rõ từng nội dung về “cái mới” của kỳ Đại hội sau so với kỳ Đại hội trước… khá rõ ràng, trong tính logic.

Nội dung, bản chất của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam tiếp tục được quán triệt, cụ thể hóa vào Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ lên CNXH, lý luận về đường lối đổi mới, về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”. Với ý nghĩa đó, nội dung mỗi Văn kiện Đại hội Đảng luôn thống nhất với Cương lĩnh xây dựng đất nước, đồng thời cũng là sản phẩm của quá trình cụ thể hóa cho sát thực với điều kiện, hoàn cảnh mới ở từng nhiệm kỳ. Qua bài Báo của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống”.

Như vậy, quá trình hoàn thiện lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH của Đảng ta luôn có tính “mở” rộng lớn. Vì thế, những biểu hiện chủ quan duy ý chí, đốt cháy giai đoạn hay thỏa mãn dừng lại,…  là trái với tinh thần của hoàn thiện lý luận về đặc trưng CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam hiện nay.

“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Ảnh: https://hcmusta.org.vn/

Những nội dung cơ bản về đặc trưng CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam trong quá trình hoàn thiện lý luận của Đảng
Hoàn thiện lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam có rất nhiều nội dung khác nhau, nhưng trong tính chỉnh thể thống nhất. Tiếp cận, luận giải cần tập trung ở hai mặt: thứ nhất, là đặc trưng CNXH và thứ hai là, con đường (cách thức) đi lên CNXH ở Việt Nam trong sự thống nhất. Mỗi vấn đề về đặc trưng đều biểu hiện một phần con đường đi lên CNXH. Đồng thời lý luận về con đường đi lên CNXH luôn được biểu hiện rõ trong nội dung về đặc trưng CNXH. Nhận thức, luận giải những nội dung trên sẽ thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn bám sát quan điểm “vận động, phát triển không ngừng” trong bổ sung, hoàn thiện lý luận, phù hợp với nguyên tắc của các nhà kinh điển Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong Bài viết của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng xác định: “Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được rằng, quá độ lên CNXH là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội…”.

Trong chống thực dân, đế quốc, thực hiện giải phóng dân tộc, vấn đề về đặc trưng CNXH ở Việt Nam được chứa đựng trong mục tiêu vươn tới xã hội tốt đẹp, không có áp bức bóc lột; nhân dân được làm chủ theo tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên CNXH thì mô hình, đặc trưng CNXH cũng như con đường đi lên CNXH đặt ra như một thách thức, cần làm rõ ở mặt lý luận. Khái quát trong Văn kiện Đại hội IV của Đảng biểu hiện tập trung ở: “…xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN, xây dựng nền sản xuất lớn XHCN; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu…”. Nội dung trên hoàn toàn đúng với bản chất CNXH trong quá trình đi lên CNXH. Tuy nhiên, ở thời điểm vừa hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước thì còn biểu hiện của bệnh chủ quan, duy ý chí, tức là chưa thật sát với điều kiện, hoàn cảnh thực tế lúc đó. Vì thế, kinh tế khủng hoảng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.

Vượt qua Đại hội V đến Đại hội VI của Đảng, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật và xác định: Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Nhờ đó Đại hội VI của Đảng đã khái quát: “… đã nhận thức sâu sắc tính tất yếu, lâu dài, khó khăn của TKQĐ; khẳng định nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của TKQĐ – bước quá độ nhỏ trong bước quá độ lớn; xác định mục tiêu tổng quát, nhiệm vụ bao trùm trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định về mọi mặt tình hình kinh tế – xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường tiếp theo”.

Với khái quát trên có thể thấy, mô hình, đặc trưng của CNXH ở Việt Nam được định hình ở những nét cơ bản. Trong đó nổi bật nhất là đã thoát ra khỏi bệnh chủ quan, duy ý chí và phản ánh khá rõ đặc điểm; trình độ điểm xuất phát còn thấp trên con đường đi lên CNXH ở nước ta.

Có thể thấy lý luận về đặc trưng CNXH ở Việt Nam phải đến Đại hội VII của Đảng mới được khái quát có tính cụ thể, cơ bản hơn. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam đã trình bày tổng quát hình mẫu (hay thường gọi gọi là mô hình) XHCN mà nhân dân ta phấn đấu xây dựng: “Đó là một xã hội, do nhân dân lao động làm chủ/Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên trình độ lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu/Có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc/Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân/ Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ/Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”. Nghiên cứu các nội dung trên cho thấy đặc trưng CNXH ở nước ta đã có những nội hàm cụ thể và căn bản đối lập với bản chất chế độ chính trị của chủ nghĩa tư bản (CNTB).

Đến Đại hội VIII của Đảng tổng kết 10 năm đổi mới và xác định mô hình CNXH chủ nghĩa ở Việt Nam được bổ sung một số đặc trưng mới: “…là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất, tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, xây dựng thành công CNXH…”. Nội dung trên là một bước khái quát cụ thể hơn so với các khái quát ở các nhiệm kỳ trước, trong đó nổi lên là nội dung: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Cụm từ trên được hiểu là cái mới, cách khái quát ngắn gọn, rõ ràng. Trong các Văn kiện Đại hội Đảng tiếp theo vẫn dùng cụm từ trên, chỉ có khác là đã đưa “dân chủ” đứng trước nội dung “công bằng, văn minh” thành một mệnh đề hoàn chỉnh.

Tiếp nối xu hướng trên, Đại hội IX đã làm sâu sắc hơn thực chất “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” là: “Khẳng định bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng không phải phủ định tất cả những gì thuộc về CNTB, mà tiếp thu, kế thừa…; xác định kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong TKQĐ lên CNXH”. Với khái quát trên cho thấy, Đảng ta vẫn trung thành với Cương lĩnh năm 1991, đồng thời đã bổ sung cụ thể hóa một bước khá lớn. Đáng chú ý là so với đặc trưng CNXH trong Cương lĩnh năm 1991 thì đã có quan điểm về “kinh tế thị trường”, thậm chí còn xác định: nó là mô hình kinh tế tổng quát. Nội dung này là cơ sở cho các bước bổ sung, cụ thể hóa một cách sát thực hơn ở các kỳ Đại hội tiếp theo.

 Như vậy, đến Đại hội IX, không những khắc phục được sự biệt lập, đối lập hoàn toàn với CNTB, mà còn thừa nhận những yếu tố, mảnh đoạn của CNTB vẫn tồn tại trong đặc trưng CNXH thời kỳ quá độ. Ở đây cần chú ý, giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN không phải là sự gán ghép chủ quan, mà nó thuộc bản chất trong TKQĐ từ một nước có trình độ thấp lên CNXH.

Đại hội X, với 8 đặc trưng của hình mẫu xã hội XHCN và 8 phương hướng cơ bản trong quá trình đi lên CNXH ở Việt Nam là một bước cụ thể hóa khá sâu sắc, đánh dấu một bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng. Ở đó luôn thống nhất giữa đặc trưng, mô hình CNXH với con đường đi lên CNXH một cách cụ thể, sát thực. Tiếp nối Cương lĩnh năm 1991, tại Đại hội XI của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam (Bổ sung và phát triển, năm 2011) đã ra đời. Cương lĩnh năm 2011 đã hoàn thiện đặc trưng mô hình (hình mẫu) xã hội XHCN với việc bổ sung hai nội dung mới. Một là: “là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và hai là: “Có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”. So với Cương lĩnh năm 1991 thì Cương lĩnh năm 2011 đã khái quát 8 mối quan hệ lớn và nhờ đó đặc trưng, mô hình xã hội XHCN ở nước ta đã khá rõ ràng, cụ thể.

Vẫn trên cơ sở đó, Đại hội XII của Đảng cụ thể hóa thành 9 mối quan hệ lớn và Đại hội XIII của Đảng tiếp tục cụ thể hóa thành 10 mối quan hệ lớn cần giải quyết. Đáng chú ý là, Đại hội XII và XIII của Đảng đã nhấn mạnh vấn đề về kinh tế (thể chế) thị trường định hướng XHCN trong đặc trưng CNXH. Đánh giá về vấn đề này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới”.

Nghiên cứu quá trình hoàn thiện lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam cần tiến tới sự khái quát trong Bài báo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Qua nội dung Bài báo, có thể hiểu đây là bản tổng kết xúc tích, ngắn gọn, rõ ràng nhất về quá trình hoàn thiện lý luận của Đảng. Trong đó nổi bật nhất là xác định rõ mục tiêu trong con đường đi lên CNXH là: “Xã hội XHCN mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.

 Khái quát trên vừa thấy là sự tiếp nối quá trình đổi mới nhận thức của Đảng trong thời kỳ đổi mới, vừa đầy đủ nội hàm, vừa sáng rõ đặc trưng và càng sâu sắc về con đường quá độ đi lên CNXH xuyên suốt TKQĐ. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khái quát rõ ràng, cụ thể hóa hơn quá trình hoàn thiện lý luận là: “Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về CNXH và TKQĐ đi lên CNXH; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của CNXH với nhiệm vụ của từng giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong TKQĐ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với CNTB…”

PGS. TS. Tô Hiến Thà/nguồn Tạp chí Đông Nam Á bản in số tháng 9/2023.

Tài liệu tham khảo
Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội t.7, tr. 523 – 524.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.47, tr. 375 – 376).
Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.51, tr.134.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.55, tr. 316.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đảng Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội, t.60, tr.131-132.
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng IV; V; VI; VI; VIII; IX; X; XI; XII; XIII, Nxb Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội.
Hội đồng Lý luận Trung ương (2016), “Một số vấn đề Lý luận – Thực tiễ về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” NXB CTQG, Hà Nội.
Hội đồng Lý luận Trung ương (2017), “Phê phán các quan điểm sai trái, xuyên tạc cuộc đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về chính trị trong Đảng” Nxb CTQG, Hà Nội.
Hội đồng Lý luận Trung ương (2020), 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ lên CNXH, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 45 – 46.
Lênin Toàn tập (2005), Tập 7, NXB Chính trị Quốc gia, tr.530.
Lênin Toàn tập (2005), Tập 29, NXB Chính trị Quốc gia, tr.114.
Lênin Toàn tập (2005), Tập 42, NXB Chính trị Quốc gia, tr.350.
Lênin Toàn tập (2005), Tập 23, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Phú Trọng (2021), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, Báo Nhân dân điện tử, ngày 16/5/2021.