Thứ năm, Tháng mười hai 26, 2024
* Email: bbt.dongnama@gmail.com *Tòa soạn: 0989011688 - 0768908888
spot_img

Vận dụng quan điểm toàn diện về giáo dục và đào tạo trong văn kiện đại hội XIII của Đảng vào dạy học lý luận ở các trường đại học Việt Nam hiện nay



ĐNA -

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến sự phát triển của giáo dục của đất nước. Theo Người, “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”; cả cuộc đời, Người chỉ có “một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập… đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”

Cả cuộc đời, Bác Hồ chỉ có “một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập… đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”

Vì vậy, chủ trương, biện pháp đúng đắn để thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo ở Việt Nam nói chung, dạy học lý luận ở các trường đại học nước ta hiện nay nói riêng. Nghiên cứu, vận dụng quan điểm toàn diện về giáo dục và đào tạo là một việc cấp thiết,  đã được Đảng ta tiến hành từ ngày thành lập Đảng và tiếp tục xuyên suốt trong hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Quan điểm toàn diện về giáo dục và đào tạo trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng là cơ sở quan trọng để xem xét, phân tích, đánh giá các vấn đề đặt ra cũng như xác định chủ trương, biện pháp đúng đắn để thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo ở Việt Nam nói chung, dạy học lý luận ở các trường đại học nước ta hiện nay nói riêng. Nghiên cứu, vận dụng quan điểm toàn diện về giáo dục và đào tạo trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Bài viết này nhằm khái quát nội dung cơ bản của quan điểm toàn diện về giáo dục và đào tạo trong văn kiện Đại hội XIII; đánh giá thực trạng và xác định những định hướng chủ yếu nhằm vận dụng hiệu quả quan điểm này trong dạy học lý luận ở các trường đại học Việt Nam hiện nay.

Nội dung quan điểm toàn diện về giáo dục và đào tạo trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng
“Toàn diện” là quan điểm chỉ đạo xuyên suốt quá trình phát triển giáo dục và đào tạo của Việt Nam, nhất là từ khi thực hiện nghị quyết số 29-NQ/TW tại Hội nghị Trung ương 8 (Khóa XI) “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Từ đó đến nay, công cuộc đổi mới giáo dục và đào tạo được tiến hành đồng bộ, toàn diện với mục tiêu là tạo ra sự chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo, đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân.

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”, hướng tới mục tiêu: “phấn đấu đến năm 2030 nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”. Theo đó, chúng ta có thể khái quát nội dung quan điểm toàn diện về giáo dục và đào tạo trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng trên những khía cạnh cơ bản sau:

Thứ nhất, Đảng ta cho rằng, mục tiêu của nền giáo dục và đào tạo nước ta là “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế”. Nhưng thực tế, nền giáo dục và đào tạo của nước ta hiện nay: “Nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu phát triển”. Vì vậy, hiện tượng sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường chưa đảm nhiệm được công việc được giao; nhất là nhân lực chất lượng cao còn thiếu và hạn chế về chuyên môn. Do vậy, mà các tổ chức sử dụng người lao động phải tiến hành đào tạo lại theo từng ngành nghề và có tính chuyên sâu.

Về việc xác định vị trí với các hành động cụ thể của nền giáo dục và đào tạo ở nước ta. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước”. Nhưng thực tế, các hoạt động trong nền giáo dục và đào tạo hiện nay có mặt chưa đáp ứng được yêu cầu trên. Vì vậy, Đảng ta chỉ rõ: “Một số nhiệm vụ đổi mới giáo dục và đào tạo triển khai còn chậm, lúng túng, hiệu quả thấp; hệ thống trường lớp phân bổ chưa hợp lý, một số nơi còn thiếu, xuống cấp”.

 Xác định ưu tiên đầu tư cho giáo dục và đào tạo, tránh nguy cơ tụt hậu so với chất lượng đào tạo quốc tế. Đảng ta xác định: “Quy hoạch, sắp xếp lại các trường đại học, cao đẳng; có cơ chế hỗ trợ xây dựng một số trường đại học lớn và đại học sư phạm trở thành những trung tâm đào tạo có uy tín trong khu vực và thế giới”. Nhưng thực tế, việc đầu tư cơ sở vật chất cho giáo dục và đào tạo có lúc, có nơi còn hạn chế, nhất là các trường đại học không cạnh tranh được với các nước trong khu vực “Kết cấu hạ tầng đại học ít được đầu tư, nhất là các phòng thí nghiệm, cơ sở thực hành…”.

Phải cơ cấu, quy mô phát triển giáo dục và đào tạo phù hợp với nhu cầu thực tế về nhân lực của xã hội, đó là: “Sắp xếp lại hệ thống trường học; phát triển hài hòa giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền, ưu tiên các vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo và các đối tượng chính sách”. Nhưng thực tế ngành giáo dục và các cơ sở đào tạo chưa bám sát nhu cầu thực tế của từng ngành nghề, mà thường đặt lợi ích của trường mình lên cao; chưa có sự điều tiết của Bộ Giáo dục và Đào tạo, cho nên số lượng người học đào tạo ra có ngành thì thiếu và có ngành thì lớn hơn nhu cầu thực tế của đất nước. Vậy nên, xẩy ra tình trạng thừa thầy thiếu thợ, dẫn đến hậu quả hiện nay có hàng trăm nghìn cử nhân, thạc sỹ không có việc làm hoặc làm trái ngành nghề được đào tạo sau khi ra trường. Đặc biệt, có ngành nghề không tuyển được người “Việc đào tạo một số ngành nghề đặc thù còn khó khăn; chưa có cơ chế đặt hàng đào tạo đối với một số ngành, lĩnh vực, đối tượng”.

Thứ hai, tính toàn diện về nội dung giáo dục và đào tạo.
Đối với mỗi con người, để tồn tại và phát triển, thì không chỉ có mỗi năng lực. Để thực hiện các công việc trong cuộc sống hằng ngày đòi hỏi phải có phẩm chất để có thái độ ứng xử phù hợp với tự nhiên, xã hội và với chính con người. Phẩm chất và năng lực là hai mặt của một vấn đề có mối quan hệ biện chứng với nhau, người có phẩm chất tốt sẽ là cơ sở để nâng cao năng lực, khi có năng lực sẽ góp phần hoàn thiện phẩm chất hơn. Thực tế, trong suốt thời gian dài vừa qua nền giáo dục của nước ta quá tập trung vào trang bị kiến thức cho người học ở dạng lý thuyết, ít thực hành và chưa chú ý đến trang bị phẩm chất cho người học. Đúng như Đảng ta khẳng định: “còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa quan tâm đúng mức đến kỹ năng xã hội, kỹ năng sống và khả năng tự học, kỹ năng sáng tạo…”. Cho nên, thực tế những năm gần đây sẩy ra nhiều hiện tượng đáng tiếc như: bạo lực học đường, cách ứng xử của người học với người dạy, cách ứng xử của người trẻ với người lớn tuổi chưa đúng chuẩn mực. Vì vậy, tiếp tục kế thừa nghị quyết số 29-NQ/TW tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XI của Đảng, Đại hội XIII Đảng ta chỉ rõ: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; … Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu)”. Đây chính là toàn diện về nội dung giáo dục toàn diện, thể hiện ở trang bị cho người học cả năng lực và phẩm chất; đó là giáo dục cả đức, cả trí, cả thể, cả mỹ; giáo dục cả kỹ năng sống, thái độ ứng xử đối với tự nhiên, xã hội và với chính con người để làm việc hiệu quả.

Thứ ba, tính toàn diện trong đổi mới các các yếu tố cơ bản của nền giáo dục và đào tạo của nước ta hiện nay. Xét theo quan điểm hệ thống – cấu trúc, quá trình sư phạm ở các nhà trường là giải quyết mối quan hệ giữa người dạy và người học, bao gồm hai quá trình là quá trình dạy học và quá trình giáo dục. Nếu như quá trình dạy học chức năng chính là trang bị kiến thức và được thực hiện cơ bản ở trường, ở lớp thì quá trình giáo dục chức năng chính là trang bị phẩm chất được thực hiện chủ yếu ở gia đình và xã hội. Tuy nhiên, hai quá trình này không tách biệt mà có sự đan xen thống nhất với nhau, trong quá trình dạy học có quá trình giáo dục và ngược lại. Tựu chung lại mục đích của quá trình sư phạm là để thực hiện cho được mục tiêu giáo dục và đào tạo. Trên cơ sở được hợp thành bởi hệ thống các thành tố: mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo. Đại hội XIII nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện”. Có thể thấy, Đảng ta nhấn mạnh các nội dung sau:

Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, từ tư duy, quan điểm đến mục tiêu, hệ thống, chương trình, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục và đào tạo; các chính sách, cơ chế và các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục và đào tạo. Đổi mới ở tất cả các cấp học và trình độ đào tạo, ở cả Trung ương, địa phương, ở cả mối quan hệ giữa gia đình, nhà trường và xã hội; đổi mới bắt nguồn ngay từ trong mọi hoạt động của cơ sở đào tào.

Đổi mới cần phải đảm bảo tính hệ thống, có tầm nhìn dài hạn, có lộ trình phù hợp với thực tiễn đất nước, địa phương; đổi mới toàn diện nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, tiến hành thận trọng, từng bước, từng cấp học. Các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có cơ sở khoa học; vừa củng cố, vừa phát huy các thành tựu, vừa kiên quyết xử lý những sai phạm; khắc phục cơ bản các yếu kém kéo dài đang gây bức xúc. Đồng thời chú trọng phát triển, nhân rộng các nhân tố tích cực và những mô hình, điển hình mới.

Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo cần phải đổi mới bắt đầu từ chương trình, nhằm phát triển phẩm chất và năng lực người học, hài hoà đức, trí, thể, mỹ; dạy người, dạy chữ và dạy nghề. Đổi mới nội dung giáo dục và đào tạo theo hướng tinh giảm các môn cơ bản và cơ sở, chú trọng đảm bảo kiến thức rộng về chuyên ngành và sâu về chuyên môn theo hướng thiết thực phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn; chú trọng giáo dục truyền thống, nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân. Tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hoá, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tăng cường giáo dục thể chất, kiến thức quốc phòng, an ninh và hướng nghiệp. Dạy ngoại ngữ và tin học theo hướng chuẩn hoá, thiết thực, bảo đảm năng lực sử dụng của người học.

Đổi mới phương pháp theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. Tập trung dạy cách học, cách tư duy, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực và phẩm chất. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức các hình thức học đa dạng, phong phú phù hợp từng trường, từng hoàn cảnh; chú trọng các hoạt động xã hội, ngoại khoá, nghiên cứu khoa học, chuyển “từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý dạy và học trực tuyến, qua internet, truyền hình, các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”, hướng tới mục tiêu: “phấn đấu đến năm 2030 nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”.

Thực trạng và định hướng vận dụng quan điểm toàn diện về giáo dục và đào tạo trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng vào dạy học lý luận ở các trường đại học Việt Nam hiện nay
Các môn học lý luận đó là các môn học thuộc khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị. Các môn học lý luận trang bị cho người học kiến thức cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, chính sách và luật pháp Nhà nước; truyền thống và văn hóa của dân tộc; tiếp thu giá trị nhân văn và tinh hoa của nhân loại vận dụng cho phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam. Thực tế, trong thời gian dài vừa qua, Việt Nam chú trọng dạy học các môn thuộc khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ. Có giai đoạn coi nhẹ dạy học lý luận Mác – Lênin, hợp nhất 3 bộ môn của chủ nghĩa Mác thành môn học. Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng, khối không chuyên ngành chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh). Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến thế giới quan và phương pháp luận của một lớp sinh viên. Vì vậy, Đảng đã chỉ rõ cần phải “Chú trọng phát triển đồng bộ khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị”.

Những năm qua, các trường đại học nước ta đã từng bước cụ thể hóa các quan điểm, nội dung của Nghị quyết số 29-NQ/TW và Đại hội XIII của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo vào hoạt động giảng dạy các môn lý luận; tích cực đổi mới phương pháp, nội dung, chương trình và kiểm tra đánh giá người học trong quá trình dạy học. Cùng với dạy học, giảng viên chú trọng, tích cực nghiên cứu khoa học các môn lý luận để bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tìm ra tri thức khoa học lý luận mới theo sự vận động của thực tiễn ở nước ta. Đồng thời, giảng viên dạy học các môn lý luận tích cực đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận. Theo đó, “Chất lượng giáo dục đại học từng bước được nâng lên và tiếp cận các chuẩn mực quốc tế. Năm 2019, giáo dục đại học Việt Nam xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới (tăng 12 bậc so với năm 2018). Công tác kiểm định và bảo đảm chất lượng ngày càng đi vào nền nếp. Tính đến ngày 31-12-2020, có 149 cơ sở giáo dục đại học và 9 trường cao đẳng sư phạm đạt tiêu chuẩn kiểm định theo bộ tiêu chí kiểm định chất lượng giáo dục đại học Việt Nam (chiếm khoảng 55% tổng số các trường đại học trong cả nước), trong đó có 7 trường đại học đã được công nhận bởi các tổ chức, kiểm định quốc tế.”

Tuy nhiên, hiệu quả quá trình dạy học các môn lý luận nói chung có môn chưa cao. Dạy học một số môn lý luận chưa thu hút được sự quan tâm của sinh viên theo học như các ngành thuộc khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ. Điều này dẫn đến tình trạng sinh viên chỉ coi học các môn lý luận là môn điều kiện, học để cho qua mang tính hình thức, còn qua loa, đại khái. Chưa tạo ra được sự hưng phấn cho đông đảo sinh viên theo học các chuyên ngành của khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị. Dẫn đến tình trạng sinh viên hiểu chưa đúng và vận dụng lý luận được trang bị vào hoạt động thực tiễn có quan điểm còn sai hay vận dụng máy móc, dập khuân không sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ, trong các hoạt động của đời sống.

Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị đang ra sức chống phá nhà nước ta trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực tư tưởng. Chúng trà trộn vào đội ngũ giảng dạy, tập trung vào việc kích động thế hệ trẻ, nhất là sinh viên ở các trường đại học với mưu đồ hạ bệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, reo rắc lối sống thực dụng, thích hưởng thụ và quá coi trọng đồng tiền, không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc, ảnh hưởng đến văn hóa xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, quá trình dạy học các môn lý luận trong các trường đại học ở Việt Nam cần quán triệt, vận dụng quan điểm toàn diện của Đảng để góp phần xây dựng con người xã hội chủ nghĩa. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả vận dụng quan điểm toàn diện về giáo dục trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng vào giảng dạy lý luận ở các trường đại học Việt Nam hiện nay, cần quán triệt và thực hiện tốt những định hướng cơ bản sau:

Thứ nhất, nhận thức sâu sắc, có hệ thống quan điểm toàn diện về giáo dục trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng, làm cơ sở để vận dụng hiệu quả vào giảng dạy lý luận ở các trường đại học Việt Nam hiện nay
Nhận thức sâu sắc, có hệ thống quan điểm toàn diện về giáo dục trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng là một định hướng quan trọng, bởi lẽ, việc vận dụng quan điểm toàn diện về giáo dục và đào tạo trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng vào giảng dạy lý luận ở các trường đại học Việt Nam hiện nay chỉ có thể đem lại kết quả thiết thực khi các chủ thể, lực lượng vận dụng có nhận thức đầy đủ, sâu sắc, có tính hệ thống. Theo đó, các trường đại học cần làm cho cán bộ, giảng viên, sinh viên hiểu rõ vị trí, vai trò của quan điểm toàn diện trong đổi mới giáo dục đại học nói chung, dạy học lý luận nói riêng. Từng chủ thể, lực lượng cần nắm chắc quan điểm toàn diện trong đánh giá các mâu thuẫn; xác định nội dung giáo dục và đào tạo cũng như tính đồng bộ, toàn diện trong đổi mới các các yếu tố cơ bản của quá trình dạy học các môn lý luận, tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động nhằm vận dụng hiệu quả quan điểm này trong thực tiễn dạy học ở đơn vị mình.

Thực hiện định hướng này, cần tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng các cấp ở các trường địa học. Thông qua các hình thức, biện pháp cụ thể để tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục. Tập trung nâng cao chất lượng bài giảng lý luận. Vận dụng có hiệu quả các phương pháp dạy học tích cực, kết hợp tốt phương pháp dạy học truyền thống và hiện đại. Nâng cao vai trò trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng, nhất là các khoa, bộ môn, đội ngũ giảng viên và cán bộ nghiên cứu khoa học trong trong nghiên cứu, vận dụng quan điểm toàn diện về giáo dục và đào tạo trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng vào dạy học lý luận. Tập trung xây dựng đội ngũ giảng viên, cán bộ nghiên cứu đủ số lượng, cơ cấu hợp lý, có trình độ tương xứng với công việc, ngành đào tạo; có giải pháp thích hợp, hiệu quả để chuẩn hóa đội ngũ giảng viên về mặt học vấn, trình độ lý luận chính trị. Xây dựng các khoa chuyên ngành vững mạnh làm cơ sở cho việc nâng cao chất lượng dạy học nói chung, nâng cao hiệu quả vào dạy học lý luận nói riêng.

Thứ hai, vận dụng quan điểm toàn diện về giáo dục và đào tạo trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng vào dạy học lý luận phải đặt trong tổng thể và góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của từng trường đại học
Đây là định hướng quan trọng, đồng thời là yêu cầu có tính nguyên tắc trong việc vận dụng quan điểm toàn diện về giáo dục và đào tạo trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng vào hoạt động dạy học lý luận ở các trường đại học Việt Nam hiện nay. Đó phải là một bộ phận, một nhiệm vụ trong tổng thể nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học của mỗi trường. Hơn nữa, mục đích chủ yếu của việc vận dụng là nhằm góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, nghiên cứu khoa học của từng nhà trường trong tình hình mới. Quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng về giáo dục, đào tạo, cũng như bám sát mục tiêu, yêu cầu đào tạo cũng như tầm nhìn, định hướng phát triển của từng trường.

Theo đó, việc vận dụng quan điểm toàn diện về giáo dục và đào tạo trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng vào hoạt động dạy học lý luận ở các trường đại học Việt Nam hiện nay phải gắn và hướng tới đổi mới, hoàn thiện chương trình, nội dung đào tạo, theo hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa”, phân cấp và rút ngắn thời gian đào tạo, giảm thời gian giảng lý thuyết, tăng tỷ lệ thời gian thực hành, tự học, tự nghiên cứu của sinh viên; khắc phục triệt để sự trùng lặp về nội dung giữa các môn học, cấp học, bậc học, bảo đảm tính kế thừa, liên thông, sát với thực tiễn và đáp ứng mục tiêu đào tạo cho các đối tượng trong tình hình mới.

Để thực hiện định hướng này, cần nâng cao cất lượng công tác giáo dục thường xuyên, gắn hoạt động giảng dạy, học tập với tăng cường công tác nghiên cứa khoa học

Thứ ba, xác định nội dung, hình thức, phạm vi vận dụng phù hợp với  từng bài giảng lý luận, từng đối tượng giảng dạy.
Đây là định hướng cơ bản, có ý nghĩa quyết định hiệu quả vận dụng quan điểm toàn diện về giáo dục và đào tạo trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng vào hoạt động dạy học lý luận ở các trường đại học Việt Nam hiện nay. Đó là làm cho quan điểm toàn diện về giáo dục và đào tạo được hiện thực hóa trong thực tiễn, thấm nhuần vào trong nhận thức, hành động của từng cán bộ, giảng viên, sinh viên. Mặt khác, việc vận dụng chỉ có thể đem lại hiệu quả thiết thực khi chủ thể xác định đúng phạm vi, mức độ vận dụng phù hợp với từng đối tượng, nội dung giảng dạy, cần linh hoạt, sáng tạo, lựa chọn đúng đắn nội dung vận dụng gắn với các hoạt động, các khâu, các bước cụ thể trong giảng dạy các môn lý luận. Cụ thể:

Đối với đội ngũ giảng viên dạy học các môn lý luận. Phải luôn tự nâng cao trình độ chuyên môn, có hiểu biết rộng về khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ, nhất là khoa học lý luận chính trị, hiểu biết sâu sắc về chuyên ngành bản thân giảng dạy, luôn trau dồi phẩm chất đạo đức, cách mạng, phương pháp, tác phong sư phạm. Quán triệt sâu sắc quan điểm biện chứng mácxít trong quá trình giảng dạy các môn chuyên ngành mình đảm nhiệm; luôn bám sát thực tiễn phát triển của đất nước, sự vận động của khu vực và thế giới; bám sát đối tượng người học để chuẩn bị và tiến hành giảng dạy. Quá trình dạy học giảng viên cần xác định rõ mục đích dạy học các môn lý luận trong cho từng đối tượng, để đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp, hình thức, cách đánh giá dạy và học theo định hướng coi trọng việc phát triển tư duy, bồi dưỡng năng lực tự học và cao hơn là tự nghiên cứu của người học.

Đối với người học các môn lý luận. Cần xác định rõ mâu thuẫn căn bản trong quá trình học các môn lý luận đó là: Yêu cầu ngày càng cao về khối lượng tri thức cần tiếp thu và khả năng tiếp thu có hạn của người học trong quá trình đào tạo. Trên cơ sở dẫn dắt của giảng viên, người học tự nghiên cứu các loại tài liệu được giảng viên định hướng, tự rút ra tri thức cho bản thân; nhất là ý nghĩa phương pháp luận và cách vận dụng vào trong các hoạt động của cuộc sống hàng ngày. Từ đó, người học hình thành thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật để học và nghiên cứu các ngành khoa học khác; có khả năng nghiên cứu khoa học tìm ra tri thức mới của ngành khoa học.

Đối với các cơ quan chức năng, khoa, bộ môn. Cần có cơ chế, chính sách và môi trường dạy học thực sự dân chủ, khoa học để khuyến khích và tự thúc đẩy người dạy và người học tích cực, chủ động và sáng tạo trong quá trình dạy học các môn lý luận. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thực tế đưa để người dạy và người học tham gia nghiên cứu ở các địa phương nhằm tăng cường cho người dạy và người học có điều kiện gắn lý luận với thực tiễn. Đồng thời, làm tốt công tác nghiên cứu trao đổi trong dạy học các môn lý luận; thường xuyên tổ chức và tham gia tọa đàm, hội thảo và nhất là sinh hoạt học thuật để giải quyết tốt những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra trong quá trình dạy các môn lý luận.

Thứ tư, tăng cường đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, phủ nhận quan điểm toàn diện về giáo dục trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng hiện nay.
Thực tiễn giáo dục, đào tạo ở các trường đại học Việt Nam thời gian qua cho thấy, sự chống phá của các thế lực thù địch đang gây khó khăn, trở ngại đối với hoạt động dạy học các môn lý luận chính trị cũng như nghiên cứu, vận dụng vào hoạt động dạy học lý luận. Do đó, quá trình vận dụng quan điểm toàn diện về giáo dục và đào tạo trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng vào hoạt động dạy học lý luận ở các trường đại học Việt Nam hiện nay không thể tách rời vấn đề đấu tranh, làm thất bại những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch chống phá quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng ta.

Để thực hiện định hướng này, cần nâng cao cất lượng công tác giáo dục thường xuyên, gắn hoạt động giảng dạy, học tập với tăng cường công tác nghiên cứa khoa học. Nâng cao chất lượng giảng dạy và tăng cường tính phê phán trong bài giảng các môn lý luận, làm cho mỗi cán bộ, giảng viên, sinh viên nhận thức sâu sắc âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá trên mặt trận tư tưởng, lý luận nói chung, xuyên tạc đường lối và thực tiễn giáo dục, đào tạo của nước ta nói riêng.
Nguyễn Văn Bách/Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng.

Chú thích:1, 2, 3, 5, 7, 9, 12, 13, 14 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.136, 234, 231, 136, 233-234, 233, 232, 136, 232.4, 6, 8, 10, 11 Đảng cộng sản Việt Nam, Sđd, t.2, tr.70, 70, 70, 70, 70.16 Trần Thị Minh Tuyết (2022), “Đổi mới giáo dục đại học ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 21-05-2022.

Tài liệu tham khảo

  1. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội 2016.
  2. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội 2021.
  3. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội 2021.
  4. BERND MEIER – Nguyễn Văn Cường, Lí luận dạy học hiện đại cơ sở đổi mới mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội 2020.
  5. Trần Thị Minh Tuyết (2022), “Đổi mới giáo dục đại học ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 21-05-2022