Tự do báo chí và tự do ngôn luận là nền tảng của một xã hội dân chủ, văn minh. Luật pháp quốc tế và pháp luật quốc gia đều thừa nhận quyền này cho mọi tổ chức, cá nhân trên báo chí cũng như mạng xã hội, nhưng cũng khẳng định, đó không phải là quyền tự do tuyệt đối. Việc thực hiện quyền này luôn phải đặt trong khuôn khổ pháp luật, nhằm bảo đảm không xâm hại đến lợi ích chung của xã hội, của nhà nước và quyền lợi chính đáng của người dân. Khi ranh giới giữa “tự do” và “vô trách nhiệm” bị xóa nhòa, hậu quả để lại không chỉ là sự lệch lạc về thông tin, mà còn có thể là sự xói mòn niềm tin và trật tự xã hội.

Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền (1948) khẳng định: “Mỗi người đều có nghĩa vụ đối với cộng đồng và trong khi hưởng các quyền tự do cá nhân, phải tuân thủ những hạn chế do pháp luật quy định, nhằm bảo đảm sự tôn trọng quyền tự do của người khác, cũng như đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung.”
Thực tiễn quốc tế cho thấy, không chỉ ở Việt Nam mà tại nhiều quốc gia như Mỹ, Pháp, Hàn Quốc, Singapore…, pháp luật đều có những quy định chặt chẽ để xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận nhằm vi phạm pháp luật, gây tổn hại đến lợi ích chung. Nói cách khác, quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận ở bất kỳ quốc gia nào cũng không thể tách rời khỏi bối cảnh chính trị, điều kiện xã hội, cũng như các chuẩn mực đạo đức và pháp lý đặc thù của từng giai đoạn lịch sử.
Tại Việt Nam, những năm qua, quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận luôn được Nhà nước tôn trọng, bảo đảm, thể hiện rõ trong cả hệ thống pháp luật lẫn thực tiễn đời sống. Tuy nhiên, dưới chiêu bài “tự do ngôn luận”, “tự do báo chí”, “nhân quyền”, các thế lực thù địch vẫn không ngừng thúc đẩy chiến lược “diễn biến hòa bình” trên mặt trận tư tưởng văn hóa. Chúng triệt để lợi dụng các nền tảng truyền thông và mạng xã hội để xuyên tạc, bóp méo sự thật, kích động dư luận, gây mất ổn định xã hội, từng bước chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Cụ thể, về thủ đoạn, các đối tượng chống phá thường lợi dụng chiêu bài “tự do báo chí”, “tự do ngôn luận” để xuyên tạc bản chất của các khái niệm này, nhằm lôi kéo, kích động một bộ phận người làm báo lệch hướng, phục vụ mưu đồ chính trị của chúng. Chúng viện dẫn các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận nhưng cố tình bỏ qua những điều khoản ràng buộc – các giới hạn pháp lý cần thiết để bảo đảm lợi ích công cộng, trật tự xã hội và an ninh quốc gia. Thông qua việc phát tán nội dung sai lệch trên Internet và mạng xã hội, chúng cố tình tạo ra nhận thức sai lầm trong dư luận rằng tự do báo chí là một quyền tuyệt đối, không chịu bất kỳ giới hạn nào.
Thậm chí, một số tổ chức quốc tế mang định kiến chính trị như “Phóng viên không biên giới” (RSF) còn đưa ra những đánh giá phiến diện, thiếu khách quan và không có cơ sở pháp lý khi xếp Việt Nam vào nhóm quốc gia “ít tự do báo chí”. Trên thực tế, Việt Nam luôn bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận theo quy định của pháp luật; đồng thời xử lý nghiêm minh những trường hợp lợi dụng quyền này để vi phạm pháp luật. Nhiều cá nhân như Phạm Dũng, Phạm Đoan Trang, Trương Châu Hữu Danh, Bích Thủy TV, Phan Mai Lợi, Lê Dũng Vova, Phan Bùi Bảo Thi… đã bị truy tố theo quy định pháp luật vì hành vi lợi dụng tự do ngôn luận để chống phá Nhà nước. Bên cạnh đó, những trường hợp khác như Lê Phương Dung (Hà Nội), Lê Hải (Đà Nẵng), Phương Ngô (TP.HCM)… cũng đã bị cơ quan chức năng xử phạt hành chính do phát ngôn và truyền bá thông tin sai lệch, gây ảnh hưởng tiêu cực trong dư luận.
Gần đây, Hồ Đăng Định, một cựu sĩ quan chế độ cũ, hiện định cư tại Mỹ đã về Việt Nam và móc nối với Trần Đức Anh Sơn (trú tại Đà Nẵng, đã bị khai trừ khỏi Đảng) để phối hợp với Công ty TNHH Thương mại, Dịch vụ, Văn hóa Cửu Đức và Nhà xuất bản Đà Nẵng cho ra đời ấn phẩm mang tên “Cõi Nhớ”. Dù chưa được cơ quan chức năng cấp giấy phép phát hành theo quy định, nhưng ngày 10/12/2022, Hồ Đăng Định vẫn tổ chức buổi ra mắt, ký tặng và bán công khai cuốn sách tại thành phố Huế. Hành vi này không chỉ vi phạm quy định về xuất bản và phát hành, mà còn đặt ra nghi vấn về mục đích thực sự phía sau việc xuất bản và phổ biến ấn phẩm nói trên.

Ngày 13/12/2022, Tạp chí điện tử Đông Nam Á (Asean News) đã có bài viết “Cõi Nhớ” một ấn phẩm có âm mưu diễn biến hòa bình, trong đó phản ánh rõ việc tác giả Hồ Đăng Định đã lợi dụng chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc để bóp méo lịch sử, cổ súy tư tưởng sai lệch nhằm phục vụ mưu đồ “diễn biến hòa bình”, chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Trước việc phát hành trái phép ấn phẩm “Cõi Nhớ”, Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn, nguyên Cục trưởng Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị (Bộ Quốc phòng) bày tỏ bức xúc: “Họ bất chấp tất cả, cố tình đổi trắng thay đen, thực chất là tấn công vào chế độ. Ta phải kiên quyết đấu tranh, vạch rõ hành vi ‘lật sử’ này!” Theo Sở Thông tin và Truyền thông TP. Đà Nẵng, ấn phẩm “Cõi Nhớ” có dấu hiệu nhạy cảm về chính trị, tư tưởng. Hiện các cơ quan chức năng đã tạm đình chỉ phát hành và yêu cầu tổ chức thẩm định nội dung, làm cơ sở xem xét, xử lý theo đúng quy định pháp luật.
Trong khi đó, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục lợi dụng chiêu bài “tự do ngôn luận”, “tự do báo chí” để xuyên tạc chủ trương, chính sách của Việt Nam; cố tình phớt lờ thực tế rằng bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trong khuôn khổ pháp luật là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Quyền này không chỉ được hiến định và thể chế hóa trong hệ thống pháp luật, mà còn được triển khai cụ thể, thiết thực trong đời sống chính trị – xã hội. Nhiều năm qua, Nhà nước Việt Nam luôn nỗ lực hoàn thiện khung pháp lý, mở rộng môi trường truyền thông và tạo điều kiện thuận lợi để người dân thực hiện đầy đủ các quyền công dân, trong đó có quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận.
Cụ thể, Điều 25 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.” Tương tự, Điều 11 Luật Báo chí (sửa đổi, bổ sung năm 2016) cũng khẳng định: công dân có quyền “phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức và cá nhân.” Những quy định này cho thấy, quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận ở Việt Nam không chỉ được hiến định mà còn được cụ thể hóa bằng pháp luật, bảo đảm công dân được thể hiện ý kiến, chính kiến của mình trong khuôn khổ pháp lý minh bạch và có trách nhiệm.
Thực tế cho thấy, không một quốc gia nào trên thế giới cho phép các cá nhân lợi dụng danh nghĩa “tự do báo chí” hay “nhân quyền” để xuyên tạc, chống phá chế độ, đe dọa chủ quyền và an ninh quốc gia. Tại Việt Nam, chỉ riêng năm 2021, đã có 43 trường hợp bị xử lý do lợi dụng danh nghĩa làm báo để vi phạm pháp luật. Những người này không bị xử lý vì hành nghề báo chí, mà vì đã sử dụng phương tiện truyền thông để phát tán tin giả, tin xấu độc, kích động tư tưởng thù địch, xâm phạm nghiêm trọng an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Việc xử lý các hành vi này không chỉ đúng quy định pháp luật, mà còn thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền được tiếp cận thông tin chính xác, khách quan của người dân, một trong những yếu tố cốt lõi bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận chân chính.
Chính phủ Việt Nam luôn tôn trọng và phát huy quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân thông qua nhiều hình thức tham vấn công khai, dân chủ. Điều này được thể hiện rõ qua việc thường xuyên lấy ý kiến nhân dân đối với các dự thảo luật, chính sách trên báo chí, truyền hình và các cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước.
Ngày 11/8/2022, Tạp chí điện tử Đông Nam Á (ASEAN News) đã đăng tải bài viết “Kiểm soát tin giả trên các phương tiện truyền thông xã hội nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng“, trong đó nhấn mạnh: trên không gian mạng hiện nay, bên cạnh các đối tượng hình sự lợi dụng để lừa đảo, còn xuất hiện nhiều cá nhân, hội nhóm phản động đăng tải thông tin sai sự thật, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm suy giảm lòng tin của Nhân dân, đe dọa trực tiếp đến nền tảng tư tưởng của Đảng ta.

Do đó, việc kiểm soát và xử lý tin giả, thông tin sai lệch trên các phương tiện truyền thông, đặc biệt là mạng xã hội, là nhiệm vụ thường xuyên và cấp thiết nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đồng thời phản bác kịp thời các luận điệu sai trái, thù địch. Đây là công việc đã được Đảng ta tiến hành ngay từ những ngày đầu thành lập và kiên định thực hiện trong suốt hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo của Đảng; giữ vững chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời củng cố niềm tin của Nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng và con đường xã hội chủ nghĩa mà dân tộc ta đã lựa chọn.
Thực tiễn cho thấy, ở Việt Nam, quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí của công dân luôn được Hiến pháp và pháp luật bảo đảm. Tuy nhiên, việc thực hiện các quyền này phải trong khuôn khổ pháp luật; không ai được phép lợi dụng danh nghĩa tự do ngôn luận, tự do báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác. Nói cách khác, quyền tự do ở Việt Nam là tự do có trách nhiệm, tự do trong giới hạn luật pháp, chứ không phải thứ tự do tuyệt đối, vô giới hạn như cách mà các thế lực thù địch cố tình ngụy biện.
Việt Nam không hề cấm đoán tự do báo chí, tự do ngôn luận; ngược lại, Nhà nước luôn tạo điều kiện để người dân phát huy quyền làm chủ, tích cực tham gia phản biện, đóng góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật thông qua nhiều hình thức công khai, minh bạch. Điều Việt Nam kiên quyết đấu tranh và xử lý là hành vi lợi dụng tự do báo chí, tự do ngôn luận để chống phá Đảng, Nhà nước, xâm phạm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, gây phương hại đến sự ổn định và phát triển của đất nước.
Những luận điệu rêu rao rằng Việt Nam “không có tự do báo chí”, “kiểm soát, bóp nghẹt tự do Internet” thực chất là sự xuyên tạc trắng trợn, thể hiện rõ âm mưu chính trị thâm độc của các thế lực phản động nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, tiến tới thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam. Những hành vi đó cần được vạch trần, phản bác và xử lý nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng và khẳng định bản chất nhân văn, tiến bộ của nền báo chí cách mạng Việt Nam.

Trong lịch sử, khẩu hiệu “tự do báo chí, tự do ngôn luận” từng được giai cấp tư sản nêu ra như một chiêu bài nhằm tập hợp lực lượng, tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ phong kiến và giới tăng lữ thống trị. Tuy nhiên, khi đã giành được chính quyền và thiết lập bộ máy cai trị của mình, chính giai cấp tư sản lại quay lưng với khẩu hiệu ấy. Khi không còn phục vụ cho lợi ích giai cấp cầm quyền, “tự do báo chí, tự do ngôn luận” bị bóp méo, phản bội, thậm chí bị gạt bỏ hoàn toàn. Lịch sử đã nhiều lần chứng minh rằng, trong xã hội tư bản, tự do báo chí rốt cuộc vẫn là công cụ trong tay thiểu số nắm giữ quyền lực kinh tế và truyền thông, chứ không phải là quyền bình đẳng thực sự của đại đa số Nhân dân lao động.
Chủ tịch V.I. Lênin từng chỉ rõ bản chất của “tự do báo chí” trong xã hội tư sản: “Trong xã hội tư sản, tự do báo chí tức là tự do cho bọn giàu có dùng mỗi ngày hàng triệu bản báo chí để lừa bịp, làm đồi trụy và phỉnh phờ một cách có hệ thống và không ngừng đối với những quần chúng nhân dân bị bóc lột, bị áp bức, những người nghèo khổ.” Như vậy, dưới chế độ tư bản, “tự do báo chí” thực chất là tự do cho tầng lớp tư sản thao túng dư luận, chi phối cơ quan truyền thông và nhà báo thông qua sức mạnh đồng tiền. Không ít tờ báo, hãng tin bị biến thành công cụ phục vụ lợi ích nhóm, thậm chí trở thành “lực lượng đánh thuê” trên mặt trận thông tin, góp phần duy trì và bảo vệ địa vị thống trị của giai cấp tư sản.
Không dừng lại ở đó, giai cấp tư sản còn ban hành hàng loạt luật lệ và sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi nhằm kiểm soát, định hướng, thậm chí bóp nghẹt những tiếng nói trái chiều, phơi bày rõ bản chất thật của cái gọi là “tự do báo chí” trong xã hội tư bản. Thực tế ngày nay cho thấy, những biểu hiện ấy không chỉ tồn tại trong quá khứ mà vẫn còn rơi rớt trong một bộ phận báo chí chịu ảnh hưởng của tư duy thương mại hóa, chạy theo lợi nhuận, núp bóng “tự do ngôn luận” để phục vụ các mục đích không trong sáng. Đáng lo ngại hơn, những hiện tượng đó thậm chí đã len lỏi vào một số khâu trong môi trường báo chí cách mạng, gây ảnh hưởng tới hình ảnh, uy tín và sứ mệnh cao cả của nền báo chí chân chính, nền báo chí vì dân, vì nước.

Nền báo chí do giai cấp vô sản xây dựng và phát triển trong suốt quá trình cách mạng luôn mang đậm tính cách mạng, trung thực và tiến bộ. Khác với báo chí tư sản phục vụ lợi ích của thiểu số, báo chí cách mạng ra đời để phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trải qua các thời kỳ lịch sử, báo chí cách mạng Việt Nam luôn giữ vững vai trò là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và Nhân dân; là vũ khí sắc bén trên mặt trận tư tưởng văn hóa, góp phần định hướng dư luận xã hội, củng cố niềm tin và lan tỏa những giá trị nhân văn, tiến bộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Báo chí của ta cần phải phục vụ nhân dân lao động, phục vụ chủ nghĩa xã hội, phục vụ cho đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, cho hòa bình thế giới.” Từ bản chất giai cấp đó, báo chí cách mạng không chỉ mang tính quần chúng sâu sắc mà còn phải thể hiện rõ ràng, nhất quán tính Đảng. Tính Đảng trong báo chí không chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, mà còn thể hiện ở nhiệm vụ bảo vệ sự trong sáng của hệ tư tưởng, bảo vệ Đảng, kiên quyết đấu tranh với cái sai, cái ác, đồng thời cổ vũ, lan tỏa những giá trị tốt đẹp, nhân văn trong đời sống xã hội. Chính điều đó tạo nên bản lĩnh, uy tín và sức sống bền vững của nền báo chí cách mạng Việt Nam.

Báo chí cách mạng do Đảng lãnh đạo, luôn giữ vai trò đi đầu trong việc hiện thực hóa mục tiêu và lý tưởng của Đảng qua từng giai đoạn cách mạng. Báo chí trở thành diễn đàn trung thực, khách quan và nhân văn của Đảng và Nhân dân; là tiếng nói bênh vực người lao động, cổ vũ tiến bộ xã hội, góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Là sự kết tinh giữa tính Đảng và các chức năng giáo dục, tuyên truyền, định hướng giá trị và tổ chức xã hội, báo chí cách mạng không chỉ phản ánh hiện thực mà còn dẫn dắt tư tưởng và hành động, góp phần hình thành phẩm chất, nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa, những con người luôn sẵn sàng phấn đấu vì những mục tiêu cao cả: độc lập dân tộc, hạnh phúc của Nhân dân, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Vì vậy, hoạt động báo chí ở Việt Nam luôn phải đối mặt với nhiều thử thách và áp lực. Hơn lúc nào hết, người làm báo cần nâng cao ý thức về tính Đảng của báo chí cách mạng, giữ gìn đạo đức nghề nghiệp và bản lĩnh của người cầm bút, những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng của Đảng và Nhân dân. Trong bối cảnh đó, tính Đảng đòi hỏi báo chí phải kiên quyết đấu tranh chống lại mọi tư tưởng, luận điệu thù địch, những quan điểm đi ngược lại lợi ích của giai cấp vô sản và Nhân dân lao động; đồng thời không khoan nhượng với các hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Qua đó, tư tưởng, lý luận, đường lối và chủ trương của Đảng được truyền tải qua báo chí trở thành sức mạnh vật chất tích cực, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Vì vậy, hoạt động báo chí ở Việt Nam luôn phải đối mặt với nhiều thử thách và áp lực. Hơn lúc nào hết, người làm báo cần nâng cao ý thức về tính Đảng của báo chí cách mạng, giữ gìn đạo đức nghề nghiệp và bản lĩnh của người cầm bút, những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng của Đảng và Nhân dân. Trong bối cảnh đó, tính Đảng đòi hỏi báo chí phải kiên quyết đấu tranh chống lại mọi tư tưởng, luận điệu thù địch, những quan điểm đi ngược lại lợi ích của giai cấp vô sản và Nhân dân lao động; đồng thời không khoan nhượng với các hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Qua đó, tư tưởng, lý luận, đường lối và chủ trương của Đảng được truyền tải qua báo chí trở thành sức mạnh vật chất tích cực, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh – người đặt nền móng cho sự ra đời và phát triển của nền báo chí cách mạng Việt Nam hiện đại từng khẳng định: “Tự do tư tưởng, Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của con người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý. Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho Nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của Nhân dân tức là không phải chân lý. Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, tức là phục tùng chân lý.” Tư tưởng sâu sắc ấy của Người không chỉ khẳng định tự do gắn liền với trách nhiệm, mà còn chỉ ra bản chất nhân văn, tiến bộ của tự do trong xã hội mới, nơi báo chí phải trở thành công cụ phục vụ Tổ quốc và Nhân dân, chứ không phải là phương tiện phục vụ lợi ích cá nhân hay phe nhóm.
Như vậy, cả về lý luận, thực tiễn và pháp lý đều khẳng định rằng tự do báo chí không phải là quyền tự do tuyệt đối, mà là sự thực hành chân lý trong khuôn khổ pháp luật. Tự do báo chí luôn gắn liền với trách nhiệm xã hội, nghĩa là quyền được bày tỏ và truyền tải thông tin phải đi đôi với nghĩa vụ tuân thủ các quy định nhằm bảo vệ lợi ích chung của đất nước, của xã hội và của mỗi công dân. Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do báo chí chính là tôn trọng sự thật, bảo vệ lẽ phải và củng cố niềm tin của Nhân dân vào Đảng, Nhà nước, vào con đường cách mạng do giai cấp công nhân và nhân dân lao động lựa chọn. Đó cũng chính là nền tảng để báo chí cách mạng Việt Nam tiếp tục khẳng định sứ mệnh cao cả của mình, phục vụ Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đồng thời, tự do báo chí cần được điều tiết một cách hợp lý nhằm ngăn chặn và xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng quyền tự do để xuyên tạc, kích động, phá hoại, gây phương hại đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó chính là cơ sở pháp lý và thực tiễn vững chắc để xây dựng một nền báo chí cách mạng trung thực, nhân văn và hiệu quả, nền báo chí phục vụ Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của đất nước, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và củng cố niềm tin của Nhân dân vào tương lai tươi sáng của dân tộc Việt Nam.
Thế Nguyễn


